Sunday, August 22, 2021

Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người

Thiếu Tá Phạm Văn Tư, vì muốn khẩn cấp cứu thương cho một tên thương binh VC đã không dùng xe mà nhờ trực thăng SĐ chở y về Bệnh Viện 71 Dã Chiến Hoa Kỳ; và cái kết khi Anh đi tù khổ sai sau ngày mất nước ...

Xin mời quý vị và quý bạn đọc một bài hồi ký của Thiếu Tá Vương Mộng Long:
=====
Thời Thế, Thiện, Ác và Con Người

Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.

Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ vào nhà thương khám lại. Tôi tiếp tục đi hành quân, cho tới một ngày, thấy mủ màu đen bắt đầu nhỉ ra qua một lỗ rò dưới nách, tôi mới đi tái khám.

Nào ngờ, kết quả lần khám này cho thấy cái mảnh đạn súng cối ấy đã di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn.

Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II.

Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.
Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.

Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng.

Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.

Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết.

Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng.

Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư

- Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?
- Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!
- Việt-Cộng à?
- Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ).
- Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?
- “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.

- Hắn thuộc đơn vị nào vậy?
- Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.
- Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?
- Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.
- Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.
- “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm?

Tôi gật đầu, tán đồng,

- Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.

Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.

Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh.

Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp.

Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng.

Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản.

Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.

Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau.

Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:

” Ối! Ối! Đau! Đau quá!… Ư!… Ư!… ư… ư…”

Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:

“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”

Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch.

Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.

Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay.

Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay.

Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi.

Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.

Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.

Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm?

Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều…

Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra.

Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.

“Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn.

Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể? Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!

“Here it is!”

Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn.

Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác.

Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.

Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau.

Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào.

Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà.

Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu:

“Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby…”

Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt.

Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây.
Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.

Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ,

- Thank you!

Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói.

Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,

- Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!
- Không thèm! Nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng.

Tôi tỉnh như ruồi,

- Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.
- Thuốc của đế quốc, không thèm hút!
- Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.

Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.

Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.

Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,

- Take it! It’s good for you!

Tôi chêm thêm,

- Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!

Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,

- May you tell him to take it?

Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm,

- Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!

Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.

Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,

- Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.

Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.

- Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.
- Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.
- E mấy?
- Hăm Tám (28)

Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,

- Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó!
- Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.
- Cấp chức gì?
- Trung úy Đặc-Công.
- Quê ở đâu?
- Hải …”Rương”
- Làng nào?
- Hỏi gì mà lắm thế?
- Thôi không hỏi nữa!

Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài.

Mấy lần y mở miệng gọi tôi:

“Này! Này!”

Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya.

Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ,

- Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?

Tôi ngạc nhiên,

- Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?

Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,

- Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn.

Tôi phì cười,

- Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:

“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?”

Tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.

- Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.
- Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?

Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng.

Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc.

Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.

Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng,

- Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!

Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.

Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.

Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh,

- Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương…

Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái,

- Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các anh có độc ác đâu?

Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh, rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.

Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.

“Don’t throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.

Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.

“Take care! Good bye! My son!” phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.

Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”

Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.

Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình…

***

Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư,

- Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?
- Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi.

Tôi biểu đồng tình,

- Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu?

Tôi hỏi tiếp,

- Sau này anh có còn gặp lại y không?
- Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?

Tôi nhắc anh Tư,

- Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?
- “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.
- Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .

Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp,

- Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.

Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng,

- Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy!

Anh Tư gật gù,

- Có khi hai người là bà con cũng nên?

Tôi cũng gật gù theo,

- Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”.

Anh Tư phụ họa,

- Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!

***

Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ, thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.

Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.

Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ.

Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau.

Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.

Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.

Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:

“Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”

Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác.

Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.

Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh.

Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố:

“Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”

Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ?

Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19.

Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra.

Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm,

- Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán.

Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:

- Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

“Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3.

Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”.

Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai.

Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm,

- Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy!

Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.

Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân, ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.

Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh, núp đàng sau một khuôn mặt điển trai.

Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?

Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước.

Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng.

Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói,

- Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!

Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!

Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!

Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.

Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:

“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”

Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.

Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,

- Lẹ lên! Lẹ lên!

Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc.

Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh.

Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng.

Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.

“Ối!…Ối! …Ối!…ôi!…ôi!…ôi!..ư…ư…ư..”

Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.

Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp.

Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!… Hừ!…hừ! …hừ!…”

Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:

“Hừ!… Hừ!…Hừ!..Hường…ơi!…Hư…ường …ơi!…ực!… ực!…ực!…”

Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!…Ư! Ử!…ư! ử!…” nhỏ dần.

Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa.

Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam.

Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.

Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.

Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.

Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.

Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17.

Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào… đứng một lúc, nghe ngóng … rồi đi vào.

Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.
Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Thiếu Tá Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.

Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt.

Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian.

Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không?

Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện.

Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.

Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.
Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.
Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

Vương Mộng Long – K20 VBQGVN
Seattle, tháng 7 năm 2013

Friday, May 11, 2012

Kỷ niệm những ngày đầu ở xứ CHADGAM

P. Ð. 534 và Tư Thi (Trung Tá Nguyễn Văn Thi) – Kỷ niệm những ngày đầu ở xứ CHADGAM
Kim Ngưu 
 
Đứng (từ trái): Nhân, Chí, Hưởng, Tứ, Hổ, Thi, Ngữ, Vàng, Trí, Nhuệ, Lâm
Ngồi (từ trái): Đạo, Giới, Chương, Giàu, Quang, Xuân, So, Quang, Tỷ, Sơn, Bộ
Cuối Xuân 72, một chiếc A-37 cất cánh từ Bình Thủy thi hành phi vụ liên lạc hành quân Cần Thơ – Phan Rang – Cần Thơ, phi hành đoàn gồm có Th/Tá Khôi và Th/Tá Thi. Ðây là 2 trong 3 ông phi đoàn truởng của 3 phi đoàn A-37 sắp đóng đô tại căn cứ Phan Rang, vừa được Mỹ trao lại KQVN.
Lúc này KQVN đang đà bành trướng, hàng ngày các phi cơ UH-1, A-37, F-5 được mang sang VNCH, và phi công đi xuyên huấn từ Mỹ về cũng nhiều. Riêng pilot A-37 (ngọai trừ thuộc các PÐ 516, 524) đổ dồn về Cần Thơ hết, do đó hàng tá các ông khu trục cánh có râu ngồi chờ thời, đợi bổ nhịêm đi các PÐ tân lập. Chưa bao giờ có nhiều ông khu trục Râu tụ về một ổ như thế: từ những ông gìa tuổi lính như ông gìa Trinh, ông già Ngàn, đến ông “già trong nghề” như anh L. M. Hoan (khóa 58 Trần duy Kỷ) cũng “trình diện PД mỗi ngày, lại còn làm sĩ quan trực nữa.!!

Sĩ quan cấp tá còn bận rộn đi đi về về Bộ Tư Lệnh, Phòng đặc trách khu trục “kiếm” chỗ đi, hoặc đổi đi F5, còn sĩ quan cấp úy chúng tôi chỉ biết ngày ngày “đi hành quân tiêu diệt địch”, làm bổn phận “nguời-trai-thời-chiến”, song rồi là tới phục vụ “Tứ-Khóai-của-cuộc-đời”… thậm chí không biết Phòng đặc trách khu trục ở đâu?
Rồi một hôm, nghe tin anh Tư Thi sắp đi Phan Rang, có ai tình nguyện đi theo không?… Tôi biết anh Thi khi anh mới lên Tr/úy còn bay A-1 ở Cần Thơ. Anh xuất thân từ Thủ Ðức, và đổi sang KQ khóa 61, cùng với các anh Tr. Móm, Th. Dâm (khu trục), anh Hiêu Tiều (Hiêú Thanh Binh), anh H. V. Ðông tây lai (trực thăng)… Anh còn độc thân… Tôi thấy ở anh là một con nguời thẳng thắn, cương trực, ít nói (không kiểu cách), nhưng dễ nổi khùng… và tôi khoái anh Thi khùng nguời Ðà Lạt từ đó, và tôi tình nguyện đi Phan Rang…
Trở lại với phi vụ liên lạc Binh Thủy – Phan Rang – Binh Thủy, chiều hôm đó tôi gặp anh Khôi, khi anh vừa ra khỏi phi cơ, mặt đỏ, tóc bù sù, mồ hôi từ đầu đến chân (hai bàn tay thì đương nhiên lúc nào cũng như vừa nhúng nước), tôi hỏi: “Thế nào Phan Rang ra sao?” Anh ném vào tay tôi cái clipboard (dùng để kẹp giấy tờ, bản đồ, và buộc vào đùi pilot lúc đang bay). Cái clipboard của anh bằng plastic cứng, màu xám giờ đây méo mó không nhận ra nữa! “Giới thiệu ông cái “NÓNG” Phan Rang, nơi ông sắp ở 365 ngày một năm! Mẹ kiếp, đậu phi cơ ở parking, rồi bỏ cái clipboard trên dashboard như mọi lần, mấy tiếng sau ra phi cơ, sờ vào đâu cũng bị BỎNG, còn nóng hơn cái bàn ủi!
Rồi cũng tới ngày “khăn gói quả mướp” đi lập đơn vị mới, dẫn đầu là anh Thi, đã có giấy bổ nhiệm là Phi đoàn trưởng 534, rồi tới các anh Hưởng (cụ Tạ), Khôi, Tứ, Nhân, Chí. Ra tới nơi thì được gặp các anh Hạnh (từ Ðà nẵng), và từ Nha Trang có các anh Nghĩa Ðãi, Lê Vàng, Võ Phi Hổ, Dương Quốc Lâm
Những ngày đầu, khi nhận phần sở mới ở khu chữ U (534 ở giữa, cánh phải là 524, cánh trái sẽ thụôc về 548) những anh như anh Khôi (Huấn Luyện KÐ), anh Hạnh (Hành Quân chiến cuộc) không thụôc chỉ số PÐ. Anh T. T. Tứ cũng cùng anh em PÐ, lột trần chỉ mặc sìlíp dọn dẹp lau rửa mấy ngày trong cái nóng như thiêu như đốt. Rồi một hôm ông PÐT họp anh em lại hỏi: “Tên PÐ là gì? Lấy con vật gì dể làm huy hiệu?. Thằng sanh sau đẻ muộn trước mình 532 nó lấy mất con gấu tao thích rồi!?!” Tôi đề nghị con Trâu: nó cũng dữ dằn, lại khoẻ mạnh, cần cù và có mầu mè dân tộc. Anh Tư cườì như gãi đúng chỗ ngưá: “Rồi con Trâu!! nhưng tên gọi làm sao cho suôi tai trên tần số”… một anh khác đề nghị Kim Ngưu, rồi kể chuyện dã sử về Kim Ngưu… “Tao đồng ý PÐ534 tên là Kim Ngưu, bây giờ cần cái patch càng sớm càng tốt để tao mang về Bộ Tư Lệnh trình!. Tên tuổi PÐ534 được sanh ra từ buổi họp của mấy ông phi tiêu cởi trần mặc sìlíp bữa đó.

Ngọai trừ staff PÐ, các hoa tiêu đầu tiên trình diện PÐ, có anh Bộ từ Ðà Nẵng, anh Giàu từ 524, là đã xác định hành quân rồi, các anh Sơn Thành Ðựợc, Nhuệ Fulro, Tỷ Rừng, Quang Bịnh đựoc huấn luyện xác định hành quân gấp và đầu tháng 12/72 các phi tuần Kim Ngưu góp mặt trên vòm trời vùng 2 CT, bên cạnh Thái Dương, Thiên Lôi và Gấu Ðen. Tôi nhớ trong một phi vụ đầu tiên này, khi báo cáo trên tần số với FAC: “Kim Ngưu có mặt trên vùng”, ông pilot (114) nói: chưa nghe tên Kim Ngưu bao giờ, mục tiêu này cần chính xác… May thay ông quan sát (Ð/u Huởng cao giò 116 mới đổi ra 114) trả lời dùm: “Phi Ðòan mới, Pilot già, tao bảo đảm thả đâu trúng đó…”
Thời gian này nặng về huấn luyện. Ngoài các hoa tiêu chờ xác định HQ, thêm một lớp chừng nửa tá hoa tiêu mới ở Mỹ về, tất cả phi tuần trưởng góp sức vào huấn luỵên, sáng một quắn, chiều một quắn!! Gần một năm sau thì xác định đựợc đủ số hoa tiêu cho PÐ. Khi PĐ 548 thành lập, cả chục Kim Ngưu trở thành Ó Ðen.
Ngày “Ngưng bắn” tháng giêng 73. Khi sáng lên phi đoàn tôi nói chơi với các bạn trẻ “chính thức 12 giờ trưa hôm nay là chấm dứt đời phi công khu trục thả bomb bắn súng vậy thì các ông bay cho đã đi, mai mốt chỉ huấn luyện lia chia!!!”. Phi tuần đầu, 4 chiếc A-37, có cả CBU-55 vừa báo cáo Pyramid đã nghe các bạn L19 khắp vùng “đặt cọc” (lại nhớ ngày mùng một tết Mậu Thân trên vùng trời Vùng 4).
Pyramid ra lệnh Kim Ngưu đi Bảo Lộc. Tới Bảo Lộc, chính ông Tr/tá tỉnh truởng lên tần số FM mà năn nỉ: “đêm hôm qua có một tiểu đội cảm tử chiếm cây xăng, trên đồi đầu tỉnh và cắm cờ, lính của tôi, tới lưng chừng đồi bị bắn rát quá, không làm gì đựoc nó… nhờ Kim Ngưu nhổ hộ cây cờ!”. Tôi trả lời “thấy cây cờ ứa gan rối… nhưng bomb của tôi mà thả thì sẽ thổi bay cây xăng, nhà dân gần đó, và lính của ông luôn!! để tôi về đổi phi cơ, sẽ trở lại nhổ cây cờ…”.
“Không sao đâu! Kim Ngưu cứ thả bomb đi, chắc Kim Ngưu đã biết chiến dịch “Trưng-Cờ-Quốc-Gia-Hạ-Cờ-Cộng-Sản”, 12 giờ là hết hạn!!”…” Tôi bảo đảm sẽ nhổ cây cờ trứơc 12 giờ.” Về tới Phan Rang chúng tôi đổi phi cơ xong, trở lại Bảo Lộc, chỉ một trái 500 đầu là cờ và cây xăng bay khỏi ngọn đồi đầu tỉnh. Ong tỉnh truởng mừng như nhổ đựợc cái gai trong cổ (và chức tỉnh trưởng đựợc bảo toàn) lại lên tần số cám ơn lia chia!, xin tên Phi Hành Ðòan để cho huy chuong!!… “Huy Chương nhiếu rồi ông tỉnh ơi!, có ngon thì ông gởi cho chúng tôi cây cờ và một caisse ông-già-đi-bộ”… “. Có ngay, chuyện đó dễ mà… một lần nữa cám ơn Kim Ngưu”. Nửa tháng sau chúng tôi nhận được lá cờ đỏ sao vàng, còn lại chừng ¾, lốm đốm những lỗ cháy của miểng bomb, ai có tới thăm PĐ534, sẽ thây cờ này treo trong phòng lounge!!! Còn rượu whisky thì chẳng bao giờ tới PÐ. (Ông Tỉnh trưởng có đọc những giòng này, thì nhớ là ông vẫn còn nợ KN một caisse whisky!!”)… Sau khi làm việc xong ở Bảo Lộc, chúng tôi nhận chỉ thị đi thẳng xuống Phan Thiết “đang đụng độ nặng”, trên đường hướng Phan Thiết, nhìn xuống rừng xanh bát ngát, lâu lâu lại thấy một cờ Ðỏ-sao-vàng ứa gan…”. Ba, Bốn xuống xịt cho nó một bó rocket, đi”
Ngày hôm đó, cho đến tối mịt từng phi tuần nối đuôi nhau lấy huớng Phan Thiêt, rút cuộc chẳng có Ngưng chiến mẹ gì cả… và như nguời Mỹ nói: the rest is history!!
Anh Thi, làm Phi Ðoàn Trưởng 534 từ những ngày đầu cho đến lúc cả đàn gẫy cánh, anh lên Tr/tá và đang còn lên nữa! nhưng công lao lớn nhất và phần thưởng lớn nhất (anh cũng tâm tình với tôi mấy tháng truớc khi anh chết) là anh được cơ hội làm con chim đầu đàn một gia đình khu trục với toàn sĩ quan phi công khu trục trẻ mới gia nhập gia đình lần đầu, học đuợc CÁÍ GƯƠNG tốt của nguời khu trục: CƯƠNG-TRỰC, THẲNG-THẮN, CÔNG-BÌNH, NGHÈO MÀ TRONG SẠCH…. Kết quả là không khí phi đoàn lúc nào cũng VUI và HĂNG-SAY, KHÔNG GHEN-TỴ, KHÔNG BẤT-MÃN.
Cứ tuởng một con nguời như anh: KHÔNG NỔI, nhưng đến khi anh chết, tôi bay xuống Dallas làm đám tang cho anh, và kêu gọi anh em đóng góp tiền bạc, vì một minh tôi chịu không nổi… Tôi đã nhận đuợc nhiều ngân phiếu và vài chữ kèm theo của anh em khu trục (Cần Thơ, Phan Rang) đã đành, rồi Trực Thăng, L19, Không Quân… Lạ nhất có cả Lục Quân và dân chính với đôi lời quen biết ỡ dâu, mến phục ra sao!!. Và từ dó tôi biết anh cũng NỔI lắm!! “hữu xạ tự nhiên hương”!! Chỉ tiếc là người đời chỉ appreciate khi anh chết rồi… nhưng chắc anh cũng chẳng màng ba cài lẻ tẻ…
Cá nhân tôi (đã phuc vụ 3 PÐ khu trục và dưới quyền chỉ huy của nhiều “trào”), giờ đây ở Mỹ đã gần 30 năm, có cơ hội gặp lại anh em 534 cũ, nói chuyện về Phi Ðòan xưa, và nguời anh cả, đều đồng ý TƯ THI LÀ SỐ MỘT.
Kim-Ngưu 04.
 
*CHADGAM, nghe có vẻ Tây-Tàu… Thật là chữ tắt của xứ Chó Ăn Ðá Gà Ăn Muối. Cũng như cư xá sĩ quan độc thân của Phan Rang có tên là cư xá ANDI, khi các quan to sung dài của B-T-L-KQ. di “kinh lý”, tra hỏi: “Tại sao KQVN đã lấy lại căn cứ của Mỹ, mà cư xá sĩ quan VN ở, vẫn lâý tên Mỹ…”Dạ …nơi đây, các ông độc thân dùng để: Ăn- Ngủ- D- I….
( Biên Hùng chuyển )

Sunday, May 6, 2012

Tóan Vào Vùng Địch / Bomb CBU và mặt trận Phan Rang 1975

 Thưa các Mẹ, các Chị, và các em nhỏ của vựa muối Ca Ná - Phan Rang năm xưa . Nếu tôi không viết lên những lời nầy thì chắc khi nhắm mắt lìa đời, tôi sẽ vô cùng xấu hổ và tự coi như mình là kẻ vong ân . Cho dù sau đó 17 năm tôi có về tìm lại các Mẹ, các Chị , và đã đốt nén nhang tại bờ biển Cà Ná, cùng nải chuối , dĩa trầu cau, mà số tiền ít ỏi của tôi có được lúc đó, để đi từ vùng Kinh Tế Mới Đồng Xoài tận Mật Khu Mã Đà về Cà Ná tìm lại các Mẹ, để nói vài lời cám ơn cứu mạng, bảo dưỡng , Nhưng tôi đã không có cơ hội bày tỏ, vì sau ngày Miền Nam rơi vào tay Cọng Sãn, vật đổi sao dời, tôi ở tù về, rồi bị bắt đi Vùng Kinh Tế Mới, cuộc sống lam lũ, cơm chẳng đủ ăn, gia đình tan nát, mất vợ, xa con ,...lấy đâu ra tiền để đi về thăm lại các Mẹ, các chị, những người mà tôi đã chịu ơn cứu mạng năm xưa ..
Theo lệnh Hành Quân của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Sở Liên Lạc,  Đoàn chúng tôi sẽ cử 1 Toán vào tham gia phòng thủ tại Dinh Độc Lập cùng quân số với các Đoàn khác, một nửa quân số do Thiếu Tá Nguyễn Văn Được chỉ huy vào tham gia phòng thủ Phi Trường Tân Sơn Nhất, số còn lại gồm nhưng người tình nguyện gồm 4 Toán hành quân, Ban Tham Mưu dã chiến, sẽ do đích thân Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Tống Hồ Huấn chỉ huy để sáng ngày 03-04-75 sẽ có một phi vụ đặc biệt chở toàn bộ ra Phan Rang ứng chiến , và đặc dưới quyền của Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là Tư Lệnh Tiền phương của Quân Đoàn 3. Ân huệ cho chúng tôi được ban ra do công điện của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu là mỗi người sẽ được đặc cách lên một cấp, cố gắng giúp Tướng Nghi thực hiện những nhu cầu hành quân mà quân bạn không đảm trách. Ngày 21-04-75 sẽ có quân số của Đoàn khác ra thay thế. Từ phòng họp bước ra , chúng tôi nhìn nhau không ai nói câu nào . Vì chưa bao giờ có cái ban thưởng đặc biệt như vậy trong quân đội, hành quân thì hành quân, chuyện cơm bửa của lính, sao nay lại hứa hẹn trước sẽ thăng cấp khi xuống Phan Rang. Đại Úy Đặng Bá Lộc nói với Thuần và tôi: Tau chắc kỳ nầy đi khó quay trở lại. Thiếu Tá Huấn quay lui nhăn mặt : Ê , Lộc nói bậy gì đó, anh em khác nghe được bàn tán rồi mất khí thế. Đại Úy Lưu văn Thuần cười khề : giởn chơi thôi Thiếu Tá, đi không về là chuyện thường của Lôi Hổ, Kinh Kha thời đại mà... Nhưng tôi cấm không được nói với binh sĩ, Thiếu tá Huấn quay lại quắc mắt nói, Lê Đí, Lê Hưng, Nguyền văn Ấn cả 3 cùng cười, nói nhỏ : Lính Lôi Hổ tinh như ma, cả lảnh thổ Quân Đòan 3 đông nghẹt lính tứ tán chạy về, ai mà không biết chuyện gì xảy ra , bảo cho thăng cấp trước hành quân là chúng nó biết ngay. Mà anh em sống chết bên nhau lâu đời làm sao giấu được. Mỗi người một câu chúng tôi rồi cũng chia tay, ai về lo việc người đó. Cả Phi trường Phan Rang như đang tắm trong cái nóng của vùng cát nắng, từng đợt không khí loãng bốc lên chờn vờn như bầy thú hoang ngoài hàng rào phòng thủ của phi trường . ủa , mà sao lại vắng thế nầy, lính tráng đâu không thấy, thấp thoáng trong các căn nhà Bộ Chỉ Huy Hành Quân có vài người qua lại. Đơn vị chúng tôi được 2 vị Tướng chỉ huy mặt trận tiếp đón niềm nở ra vẻ ưu tiên và cho được nằm cạnh Phòng hành quân. Thỉnh thoảng có vài tiếng nổ của đạn pháo 130 ly ngoài xa.
Trên bầu trời bây giờ xuất hiện 3 chiếc A37 đang bay về, phiá sau 1 đoàn 6 chiếc trực thăng đang từ từ hạ cánh trước Bộ Chỉ Huy Hành Quân, chúng tôi thấy những binh sĩ Nhảy Dù lần lược rời phi cơ, có một Đ/u đang tập họp, trong đám họ có người không có ba lô, có người không có súng, tôi tiến đến xem có ai quen thì ra Đại Úy Nguyễn Văn Bé bạn cùng khóa. Tôi hỏi bạn sao lính mầy lôi thôi vậy, Bé cười buồn, bọn tao bị tụi nó cáp duồng tại Khánh Dương, đánh nhau một trận tơi bời hoa lá mới ra thân thể nầy. Bây giờ nhận lệnh Trung Tá Phát Lữ trưởng Lử Đoàn 3 Dù, cho tái trang bị rồi chơi tiếp. À, mà Biệt Kích tụi mầy ra đây chi vậy. Biên giới mới là sân chơi của tụi mầy mà. Tôi nói, lính mà em, đâu có giặc thì ta cứ đi. Bé chửi thề một câu rồi chép miệng, nóng lắm nghe mậy, tình hình bi đát lắm đó, tụi nó có đến 3 Công Trường, chưa kể thiết giáp, pháo phòng không và cả mấy Trung Đoàn tăng viện. Rồi Bé nói tiếp: tụi tao đụng bọn Sư Đoàn 3 Sao Vàng, toàn bọn lính non choẹt, nhưng khổ nổi chúng nó đông quá, lại được yểm trợ tụi Tăng T.54 và Pháo tập. Bọn tao bị phục kích đánh chia cắt cô lập, không phương tiện yểm trợ như trước, bọn mầy cũng hãy coi chừng, thôi, mai gặp. Tôi bắt tay cám ơn bạn , từ ngày ra trường bây giờ mới gặp nhau, chẳng có một ly bia để uống mừng hội ngộ, không kịp hỏi han về gia đình, chiến trường mà.!. Vào họp để nghe Chỉ Huy Trưởng Chiến Đòan ban lệnh, khi ra khỏi phòng thì trời cũng đã về chiều, Ngoài xa là một Đơn vị bạn đang đổi tuyến. Tôi lầm lủi về vị trí tập trung để ăn cơm chiều. Đại Úy Nguyễn văn Dẫn cũng đang đưa Toán của anh đến gần và hỏi tôi thấy có gì lạ không. Tăng lùn và Phúc mát nhe răng cười : Tụi mình lâu nay đi làm ăn riêng lẻ, từng Toán xa tít mù khơi, bây giờ hoạt động chung với Dù, Bộ Binh, Địa Phương Quân, lại có cả xe tăng, máy bay lũ khũ, đông vui quá xá, sợ gì chớ..Thật vậy, đơn
vị chúng tôi bao giờ cũng làm ăn lẻ, có đâu như bây giờ đông quá Hải Đen xen vào: Các anh nghỉ xem, đông như đại chiến thế nầy mới là nguy đó .Tình hình sao người ta mới đưa mình ra đây, lại còn cho lên lon trước nửa chứ, tôi không ham .!, Nghe Hải nói có lý, tôi thầm nhủ , mình ra đây là do tình nguyện, mà không tình nguyện cũng phải đi. Tất cả quân Tổng Trừ Bị đều đã bị ném ra các vùng chiến thuật hết cả rồi .thôi thì < Mẹ đã lấy tiền rồi con ơi ! Lôi Hổ ! Sá Gì > Đã vào binh chủng nầy rồi thì thân mạng có sá gì  ...... chúng tôi thường bảo nhau như thế, 1giờ 40 phút trưa ngày 05-04-1975, tất cả 4 Toán đã nhận đầy đủ nhiệm vụ xâm nhập là truy tìm vị trí đóng quân của VC, phát hiện và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, Bắt tù binh để khai thác ý đồ tiến công ,Thăm dò và hướng dẫn quân bạn thất lạc tại Khánh Dương trở về và cố tìm kiếm xem vị trí phòng không cũng như các Đơn vị xe Tăng của đối phương
....Những thông tin nầy rất quan trọng cho việc điều quân phòng thủ căn cứ Phan Rang , đã được Tướng Nghi quan tâm đặc biệt, ông cho biết Phan Rang bây giờ như yết hầu của cả Miền Nam, với quân số ít ỏi rất khó phòng ngự, mặc dù bên ta có lực lượng phi cơ tác chiến với tinh thần rất cao, nhưng ta đã mất điểm tiếp tế xăng dầu tại Cam Ranh, tất cả điều phải nhận từ Sài Gòn. Kho xăng dự trử tại phi trường đã bị địch pháo kích, các ngày sắp tới sẽ được tăng viện thêm 2 Trung Đoàn BB và có thể thêm một Lữ Đoàn Nhảy Dù...các Toán Lôi Hổ phải thám sát kỷ mặt Tây Quận Tân Mỹ trải xuống Bắc và Đông Bắc Quận Du Long, trước khi các đơn vị bạn được điều động đến Chiến Đoàn 1 chúng tôi có 4 Toán tham gia trận nầy là Toán Hải Sơn, Hải Vân, Hải Yến và Hải Điểu do 4 sĩ quan cấp  Thiếu úy chỉ huy, nhưng lúc nầy bảng Công tác đã ghi cấp bậc mới là Trung úy, còn nhân viên Toán cũng điều được Đại Úy Lộc ghi thêm 1 cấp , nhưng điều nầy chẳng mấy ai quan tâm. Đại Úy Thuần nói để hôm về SG sẽ làm lể khao lon một lược cho vui , ( nhưng điều nầy chẳng bao giờ đến với đơn vị chúng tôi nữa ), Các Toán được tôi hướng dẫn qua kho quân nhu của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân lãnh lương khô và trang bị hành quân . Đến khoãng 4 giờ chiều thì các Toán trở về vị trí để trang bị. Tôi đến bắt tay mừng các Toán Trưởng như Trung Úy Trần Công Minh, Nguyễn văn Nhung , Nguyễn văn Tiếp và Đại Úy Nguyễn Văn Dẫn cùng chuyện trò với các anh em khác , Lệnh xâm nhập đã được ban hành : sáng mai lúc 9 giở 30 , Phi Đoàn 229 trực thăng sẽ bốc Toán vào vùng. Tôi đứng trước phòng họp của Bộ Chỉ Huy Tiền Phương cùng vị Chỉ Huy Trưởng Đoàn 1 và  đưa mắt tiển theo các chiếc trực thăng mang đi những bạn mình vào vùng nguy hiểm, trong thâm tâm chúng tôi điều biết lần nầy may ít rủi nhiều, có cái gì rất khác những trận Quãng Trị, Hạ Lào, hay trận Lai Khê An Lộc  mà tôi đã từng tham dự. nhưng tôi không tài nào lý giãi được. Nhìn cho khuất bóng những con tàu ở cuối chân mây, tôi thầm cầu nguyện Mẹ Quán Thế Âm, Mẹ Maria, xin độ cho những Kinh Kha ra đi hãy được trở về  !
Đến trưa các Sỉ Quan Tiền Không Sát đã về, tin từ những Toán xâm nhập báo cho biết vào vùng an toàn. tôi vào phòng Truyền Tin để theo dỏi thêm một lúc nữa, tình trạng các Toán vẫn ổn . Có lẽ Địch chủ quan vì được tuyên truyền bên ta đã bỏ ngỏ Phan Rang, hoặc đang say men chiến thắng vì đã chiếm được Nha Trang không tốn một viên đạn, nên không chú tâm đến mối đe dọa đang rình rập: Biệt Kích Lôi Hổ đang săn lùng chúng mầy ...
Và những gì đến đã đến, Toán Hải Vân của Trung Úy Trần Công Minh đả tóm gọn được 2 cán binh thuộc Công Trường 968 đang gởi về làm quà ra mắt cho Trung Tướng Nghi, tiếp đến Toán Hải Yến cũng tóm được 1 cán binh quan trọng thuộc F.10 của SĐ 3 Sao Vàng. Toán của Đại úy Dẫn và Trung Úy Tiếp cũng cho biết tọa độ đóng quân của 2 Trung Đoàn Bắc Việt thuộc SĐ 325 chủ lực. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương bây giờ như có con mắt thần từ xa , Tướng Nghi báo về Sài Gòn xin cho ra tăng viện Lữ Đoàn 2 Dù và điều động 2 Trung Đoàn Bộ Binh 4 và 5 từ Bình Thuận ra. Còn sau đó là những gì thì tôi không được biết nhưng trưa ngày 9-4-75, thì tôi và Đại Úy Lê Đí cùng Long râu, Thắng Huế, lên một chiếc trực thăng, bên kia Đại Úy Thuần và các anh em khác như  Ngyễn văn Ấn, Lê Hưng lên một  chiếc khác bay ra hướng Du Long, phiá Tây Nam của Ba Ngòi và đáp xuống, nơi đây là khu rừng thấp nằm trên triền một ngọn đồi, những cán binh Bắc Việt nằm ngồi ngỗn ngang, có anh mắt đã lồi tròng trông rất khũng khiếp, có anh máu ra từ mũi, miệng, 2 tai, có người lưỡi thè ra gần một gang tay, người thì 2 tay cấu vào ngực, tôi thấy một người mặt còn rất trẻ, 2 tay nắm lấy khẩu CKC, tôi cúi xuống cầm khẩu súng nhưng không tài nào giựt ra được vì 2 tay anh ta nắm rất  chặc.. Lê Đí báo về Bộ Chỉ Huy Hành Quân và liên lạc với Thuần đang ở mục tiêu khác thì tình hình cũng như  bên nầy. Chúng tôi cố lượm vài khẫu súng K.54 và thu gom ít tài liệu từ những cái cạp-dề rồi vội vàng lên trực thăng để về báo cáo lại tình hình. Sau đó Tướng Nghi và Tướng Sang gọi Trung Tá Tống Hồ Huấn lên để nói những lời khen thưởng anh em Lôi Hổ Nha Kỹ Thuật. Chính Trung Tá Huấn cũng không biết điều gì đã xãy ra .Sau  nầy ngồi bàn tán mới suy đoán được là nhờ sự phát hiện của Toán xâm nhập, Bộ Chỉ Huy Tiền Phương đã xin Lệnh từ Sài Gòn và kết quả là 2 trái CBU đã được Không Lực VNCH qua sự chấp thuận của một người Mỹ mặc thường phục là Sĩ Quan đại diện của Tòa Đại Sứ Mỹ tại vùng 2 hình như tên ông ta là Lewis ( nói rất rành tiếng Việt đúng giọng cả 3 Miền ) xin cấp trên của họ chấp thuận , nhằm mục đích ngăn chận sức tiến quân của bộ đội BV, nhờ đó mà Mặt Trận Phan Rang mới cầm cự được thêm gần 1 tuần lể và các đơn vị BV mới tạm thời rút quân lui về ẩn giấu tại khu vực Vườn Dừa và Ba Ngòi để chờ lệnh và chính nhờ sức phòng thủ của tất cả các Quân binh chủng bạn như các đơn vị Địa Phương Quân, nghĩa Quân, các chiến sĩ bộ chiến thuộc SĐ 2 BB, và nhất là sức chiến đấu ngoan cường của 1 Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn 3 Dù và Lữ Đoàn 2 Dù của Đại Tá Nguyễn Thu Lương mà Phan Rang đã giữ vững suốt trong 2 tuần lể, kể từ khi mất Nha Trang , nhờ đó mà Sàigòn có thêm cơ hội tổ chức chiến đấu để người Mỹ kịp đưa người di tãn trước khi mất Miền Nam Việt Nam. Rốt cuộc, Phan Rang mà chúng tôi nhận lệnh hành quân từ SG; không phải là bàn đạp để tái chiếm Nha Trang thân yêu, cái thành phố biển hiền hòa trong lòng người dân Việt, mà ngược lại, đây chỉ là thâm ý của giới chính trị Hoa Kỳ , biến Phan Rang thành một chốt chặn tạm thời để họ thu xếp cho cuộc di tản Sàigòn , và tất cả chiến binh tại mặt trận Phan Rang từ người lính cho đến cấp chỉ huy chung quy cũng chỉ là con chốt thí  ! Tuy suy nghỉ như vậy, nhưng đã là chiến binh, chúng tôi , tất cả người lính của Miền Nam VN, trong mọi hoàn cảnh, đều luôn chấp hành triệt để quân lệnh trong nghiệt ngả gian nguy, nhằm mục đích chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc và an dân. Sau chiến tranh, chúng tôi  mỗi người một nơi, kẻ lưu lạc xứ người, kẻ bị đoạ đày trong trại cải tạo, nhưng sau khi trở về đời sống dân thường vẫn giử được khí tiết và sống đời trong sạch, không gian manh trộm cướp, nhũng loạn đồng bào. Vị chỉ huy trực tiếp của chúng tôi là Trung Tá Tống Hồ Huấn sau khi ra tù, sang Tân Tây Lan theo sự bảo lảnh của người em vợ cũng đã trở thành vị Mục Sư tin lành, cho dù ông ta đã có vài lần xử ép tôi , nhưng đó là quân đội, thi hành trước khiếu nại sau,  phải không Trung Tá Mục Sư . 

(còn tiếp) ...

Phan Rang và những điềm lạ báo trước .  
( Lôi Hổ  Huỳnh Ngọc  ..CĐ 1/XK/NKT )

Friday, May 4, 2012

Hồi Ký Dang Dở


Đại Tá Dương hiếu Nghĩa

 Những gì đã xẩy ra cho dân chúng miền Nam sau ngày 30-4-1975 ...   Khó tin ? Nhưng sự thật vẫn có nhiều người kiểm chứng .  

Hồi Ký Dang Dở...

Sau ngày quốc hận 30/4/1975, có một số anh chị em Quân Dân Cán Chánh và gia đình, tuy may mắn được di tản ra nước ngoài, nhưng không có dịp "may" ở lại để chứng kiến tận mắt những hành động ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ của của những người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc vào, tự xưng là để "giải phóng cho đồng bào ruột thịt đói rách ở Miền Nam "; của những người cùng uống nước sông Cửu Long nhưng tự hào được cộng sản Bắc Việt cho "tạm mang dép râu, đội nón cối" (mà không biết!). Ở lại để chứng kiến những con "cọp 30", những người Miền Nam hống hách được cộng sản cho mang băng đỏ trên tay áo, thuộc hệ thống nằm vùng, và nhất thời làm tay sai cho cộng sản!!!
Có thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất của người dân Miền Nam Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Những đồng bào nào được may mắn rời khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4/1975, và những em cháu thuộc những gia đình nầy (tính đến nay cũng từ 21 tuổi trở lên, kể cả những con em của tất cả người Việt Nam được chào đời trên các nước phương Tây tự do) không bao giờ hình dung được cái ngày lịch sử đen tối nầy, vì cộng sản Việt Nam đã cố tình sửa lịch sử ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Nam để giành lấy cho đảng cái chánh nghĩa "giải phóng dân tộc".

Cho đến giờ nầy dù chúng tôi có nói lên những sự việc thật sự đã xảy ra từ trước và sau ngày 30/4/75, thì bà con nào đã rời khỏi đất nước trước ngày lịch sử đó (nhất là thế hệ sau 75) cũng không ai muốn tin và chịu tin đó là sự thật. Một phần vì có người còn cho chúng tôi thuộc thành phần chống cộng, thù ghét cộng sản nên chỉ nhằm tuyên truyền chống cộng; một phần vì bà con không ai ngờ là "cùng là người Việt Nam với nhau ai lại có tâm địa vô nhân đạo, phi đạo đức và phi dân tộc đến như thế được.

Do đó những gì chúng tôi kể lại đây không hẳn là những trang "hồi ký" của riêng cá nhân mình mà thật sự là những gì đã xảy ra tại Saigon và những vùng phụ cận trong những ngày trước và sau 30/4/1975, kể lại trung thực những sự việc mà chính bản thân chúng tôi vừa là một nạn nhân, vừa là nhân chứng, những sự việc mà chính mắt chúng tôi đã thấy, chính tai chúng tôi đã nghe..., để tạm gọi là "luận cổ" (nói về chuyện xưa), để những anh em bạn già sống tha phương cầu thực chúng ta có đầy đủ yếu tố mà trao đổi nhận định, và để các thế hệ con cháu chúng mình có thêm sự hiểu biết chính xác hơn về bản chất, về con người, về đường lối chủ trương và chánh sách của người cộng sản Việt Nam,mà "suy kim" (suy biết được cái hiện tại). tức là để thấy được việc làm của người cộng sản trong hiện tại và trong tương lai.

Người dân Miền Nam chúng ta gọi ngày 30/4 là "ngày quốc hận" vì Nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta bị xóa tên khỏi bản đồ của Thế Giới nói chung, và củaThế Giới Tự Do nói riêng, từ ngày 30/4/1975. Bởi vì cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Định Ba Lê 1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, vừa xua quân công khai tiến chiếm Miền Nam Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngày mất nước, khách quan có, chủ quan có, xa, gần đều có. Chúng tôi không muốn bàn thêm ở đây, vì trong gần 30 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi ký, Việt có, Mỹ có, Pháp có, tất cả đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một vài mẩu chuyện thật, vui buồn lẫn lộn của bản thân, có liên quan đến ngày quốc hận nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu vào trang lịch sử đau thương của Đất Nước.

.....................

Ngày 1 tháng 2 năm 1973

Tôi và một nhóm anh em sĩ quan cấp tướng tá thuộc Khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng được thuyên chuyển về Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương vừa được thành lập theo điều khoản của Hiệp Định Ngừng Bắn Ba Lê, được ký kết giữa 4 Bên ngày 27 tháng giêng 1973 tại Ba Lê.

Từ hơn một tháng qua, anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được lệnh chia nhau từng toán, sửa lại từng điều khoản một, trong bản thảo của cái gọi là Hiệp Định Ngừng Bắn sắp được 4 Bên ký kết ở Ba Lê (Pháp). Vì qua nghiên cứu, Chánh Phủ không thấy có một câu nào, một đoạn văn nào trong bất cứ điều khoản nào mà không có lợi hoàn toàn cho phía Bắc Việt, ngược lại chỉ có hại hoàn toàn cho Miền Nam Việt Nam mà thôi. Cũng qua nghiên cứu anh em học viên chúng tôi đều thấy là: toàn bộ bản văn tiếng Việt của Hiệp Định nầy rõ ràng là tác phẩm của cộng sản Bắc Việt được Lê đức Thọ trao cho Kissinger dịch ra tiếng Anh, một bản dịch "thật sát nghĩa" từ ý lẫn lời văn của tác giả Miền Bắc!

Đúng vào ngày 27 tháng giêng /1973 sau khi ký kết Hiệp Định cả Chánh Phủ và chúng tôi đều hết sức thất vọng vì không thấy được một dấu vết sửa chữa nhỏ nào cuối cùng được thực hiện trước khi các Bên ký kết.

Tôi muốn ghi lại chi tiết nầy để chúng ta cùng thấy được là nước VNCH của chúng ta đã bị Đồng Minh của mình phản bội, bán đứng cho cộng sản Bắc Việt ngay từ khi họ dàn xếp được Hội Nghị Paris (có cả MTGPMN là một trong 4 Bên ở Bàn Hội Nghị) một ít lâu sau Tết Mậu Thân 1968, để rút chân ra khỏi cuộc chiến với một danh từ thật kêu là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh".

....................

Ngày 28 tháng 4/1975: 8 giờ sáng,

Đại tá Ngyễn Hồng Đài từ tư dinh của Đại tướng Dương văn Minh điện thoại trực tiếp cho tôi nhờ đưa một phái đoàn đại diện cho Tổng Thống đến gặp phái đoàn cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng (MTGPMN) ở trại Davis. Phái đoàn gồm có Luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng Thống, Luật sư Vũ Văn Mẫu Thủ Tướng và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, quyền Tham mưu trưỏng QLVNCH từ ngày 28 tháng 4/75.(một bộ hạ thân tín của tướng Dương Văn Minh ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân từ 1955, sau nầy mới được biết là đã làm tay sai cho CS từ đầu thập niên 70 và từ đó đã trở thành một Việt Cộng nằm vùng rất đắc lực của Bắc Việt. ) Khối Ngoại Vụ chúng tôi cho biết là CSBV và Việt Cộng không tiếp phái đoàn, nhưng đại tá Đài cho tôi biết là "ông già nhấn mạnh là tôi nên cố gắng, vì cuộc gặp mặt nầy rất quan trọng". Tôi đành phải đích thân gọi vào trại Davis, gặp đại tá Sĩ để điều đình và cuối cùng phái đoàn của Tổng Thống Minh "được đồng ý cho vào trại Davis gọi là để viếng thăm hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và CPLTMN" (nguyên văn lời đại tá Sĩ trực tiếp nói với tôi qua điện thoại).

(Xin mở một dấu ngoặc ở đây để nói rõ về anh đại tá Sĩ nầy. Tôi biết đưọc anh Nguyễn Văn Sĩ trước học ở trường Collège Cần Thơ, có biệt danh là "Sĩ Kiến, Theo bản trận liệt mà chúng ta biết được thì anh Sĩ là Tư Lệnh sư đoàn 7 bộ binh của MTGPMN. Chúng tôi hai đứa gặp nhau và nhìn lại nhau ở cương vị đối nghịch nhau tại bàn hội nghị Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Tân sơn Nhất. Nhờ đó mỗi khi gặp bế tắc trong bất cứ vấn đề gì ở bàn Hội Nghị, nhất là về trao trả tù binh thì anh Sĩ lại được tướng Tràn văn Trà cho làm đại diện cho Cộng sản để "mật đàm với đại tá Nghĩa" nhằm tìm ra giải pháp. Đến năm 1989, sau khi ra khỏi trại tù cải tạo, nhân một dịp đi xuống Cần Thơ, tôi lại được gặp anh Sĩ vài lần ở ngay sân quần vợt Cần Thơ, và đươc biết là anh đã rời khỏi quân ngũ từ 1977, vì lý do đảng tịch, và là người Miền Nam nên anh phải "đi một xuồng" với tướng Trà).

Phái đoàn của Luật sư Huyền vào trại Davis lúc 9 giở 30 và rời khỏi trại hồi 10 giờ hơn. Tôi tò mò muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ nầy, nhưng đại tá Đài không cho biết vì anh không được biết hay vì anh không muốn tiết lộ, hay vì một lý do nào khác? Qua đại tá Sĩ thì tôi cũng không được biết gì hơn ngoài câu "như đã thỏa thuận với anh hồi nãy", tức phải được hiểu ngầm là "chỉ có viếng thăm xã giao mà không có bàn đến các vấn đề gì khác"

Tò mò hơn, qua điện thoại với trung tá chánh văn phòngTrương Minh Đẩu, tôi được biết là Ông Dương Văn Minh đã "mò" lên tận vùng Long Khánh (không rõ chính xác ở đâu) với liên lạc viên Dương Văn Nhật để gặp Lê đức Thọ từ mấy ngày trước, qua đường dây liên lạc đặc biệt nào đó mà anh không biết.

(Dương Văn Nhật là em ruột của tướng Minh, tập kết ra Bắc năm 1954, về Nam với quân hàm trung tá của MTGPMN, vào ở ngay Dinh Hoa Lan tại đường Trần quý Cáp với gia đình tướng Minh từ lâu, dĩ nhiên trong nhiệm vụ sĩ quan liên lạc của cộng sản.)

Vẫn theo lời anh Đẩu thì sau khi phái đoàn của ông Nguyễn Văn Huyền về đến Dinh Hoa Lan, ông Minh họp Hội đồng Chánh Phủ và cho biết là MTGPMN đã bác bỏ đề nghị của ông nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam. Vì vậy ông đã quyết định là "chỉ còn một cách duy nhất là "đầu hàng vô điều kiện" mà thôi.

4 giờ chiều :

Tôi muốn nhắc lại ở đây một đoạn đàm thoại ngắn giữa tôi và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ qua điện thoại mà ông gọi tôi lúc 4 giờ chiều ngày hôm nay từ tư dinh của ông ngay trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất.

Anh còn ở đây chưa đi đâu sao anh Nghĩa?
Thưa thiếu tướng chưa, vì tôi còn trách nhiệm phải lo cho gia đình các anh em quân nhân của Ban Liên Hợp đi cho xong rồi tôi mới đi. Dự trù chiều mai 29 thưa thiếu tướng.
Gia đình anh đi chưa?

Thưa thiếu tướng đã đi xong đêm 26 vừa rồi. Còn thiếu tướng sao giờ nầy còn ở đây?
Tôi và gia đình đang sắp sửa đi đây, Anh Tiên (chuẩn tướng Phan Phụng Tiên) cho phi cơ đưa chúng tôi đi nhưng anh Tiên thì còn ở lại, đi sau.
Nói đến đây ông hơi ngập ngừng chừng một phút rồi mới nói tiếp:
Phải đi chớ ở lại đây sao được anh Nghĩa? Tôi vừa mới từ nhà ông Minh về đây. Theo lời ông Minh nói với tôi lúc nãy thì chúng ta coi như đã, mất hết rồi không còn quyền gì nữa hết, anh Nghĩa, kể cả quyền làm chánh trị!..., Ông Minh đã nói thẳng cho tôi như thế. Lúc này thì mình còn ở lại đây để làm gì nữa anh Nghĩa?
Nói tới đây ông sụt sùi và tôi nghe có tiếng khóc nghẹn ngào của ông qua điện thoại. Tôi nghĩ có lẽ ông vừa bực tức ông Minh vừa bực tức vì một đời ngang dọc của ông coi như bị trói cả hai tay trong lãnh vực quân sự lẫn chánh trị.. . . và xúc động thấy mình sắp phải rời khỏi quê hương.
Không thấy tôi nói gì nữa ông nói tiếp:

Vậy tôi đi hôm nay nghe, anh cũng nên đi luôn đi, coi chừng đi không kịp nữa đó. Anh Tiên chắc cũng đi sau tôi. Còn sắp xếp cho anh em Không quân nữa, chắc phải đưa tất cả phi cơ đi cho hết. Thôi anh ở lại đi sau nghe, chúc anh may mắn
Xin chúc thiếu tướng và gia đình thượng lộ bình an.
Cám ơn anh.
Một lúc sau đó anh Phan Nhật Nam về gặp tôi ở Ban Liên Hợp xác nhận là gia đình ông Kỳ vừa bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng và anh cũng nhân đó hỏi tôi đã nói gì với ông Kỳ làm cho ông khóc vậy? Tôi đáp :
Có lẽ ông cảm động trước khi rời khòi quê hương, và bực tức vì lời nói của ông Minh Dương chớ tôi thì không có nói gì cả. ?
Từ sáng sớm hôm nay, căn cứ Không Quân Biên Hòa được lệnh dời hết về Tân Sơn Nhất tất cả phi cơ các loại, từ phi cơ chiến đấu, vận tải đến trực thăng các loại, tất cả nhân viên phi hành và không phi hành đều lục tục kéo nhau về hết ở đây cho đến gần 7 giờ chiều mà vẫn chưa hết. Người nào có gia đình hay thân nhân ờ vùng Sài Gòn Chợ Lớn Gia định thì được phép về nhà nhưng toàn bộ vũ khí cá nhân đều phải gởi lại hết ờ Tân Sơn Nhất. Như thế là cả Vùng 3 và Biệt Khu Thủ Đô chỉ còn có mỗi căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất mà thôi.
6 giờ chiều

Chúng tôi vào D.A.O. đưa một toán 200 người thuộc gia đình sĩ quan và hạ sĩ quan /Ban Liên Hợp Quân sự ra phi cơ trong chương trình di tản (toán thứ 8).

Chờ cho phi cơ cất cánh xong (9 giờ) chúng tôi mới trở về lại Ban Liên Hợp, vẫn phải trực như mọi người và mọi đơn vị.

10 giờ đêm:

Từ 10 giờ đêm, Bắc Việt bắt đầu pháo kích và bắn hỏa tiễn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay ban chiều vào khoảng 7 giờ, họ đã cho một loạt tác xạ điều chỉnh vào khu vực sân bay rồi : tất cả 5,6 quả và 2 hỏa tiễn đều rơi vào khu dân cư ở xóm Trương minh Giảng và Lăng Cha Cà ở bên ngoài khu vực sân bay. Nhưng từ 10 giờ đêm trở đi thì tất cả đạn pháo nặng nhẹ từ 130 ly đến bích kích pháo 82 ly và hỏa tiễn đều rơi vào các đường bay, các ụ chứa phi cơ và các kho bom đạn cũng như Bộ chỉ huy các Không đoàn, Riêng Ban Liên Hợp chúng tôi cũng được hưởng mấy trái hỏa tiễn và đạn pháo 130 ly làm cho 3 dãy nhà bị cháy và gây tử thương vài binh sĩ, làm bị thương một số khác

Chúng tôi và đại tá Ba ra ngoài đường thoát nước lộ thiên bằng xi măng trước văn phòng nằm tránh đạn. Chiếc xe của tôi đậu cách chỗ nằm của chúng tôi chừng 15 thước bị một mảnh đạn và bốc cháy mà chúng tôi không dám chữa. Từ đó, Bắc Việt pháo kích từng chập từng chập cách nhau chừng 15 phút, đủ loại, không ngừng cho đến sáng hôm sau. Hầu như không có phi cơ quan sát hay tiềm kích nào cất cánh lên được suốt đêm nay, và cũng không nghe thấy có tiếng súng phản pháo nào.

Riêng trại Davis của hai phái đoàn cộng sản, cách văn phòng chúng tôi chừng 100 thước, thì không bị một quả đạn nào, tất nhiên đây là vị trí của tiền sát viên Bắc Việt giúp điều chỉnh tác xạ suốt đêm nay thật chính xác, vì trong 2 năm ở đây họ đã nắm rõ từng vị trí trong sân bay nầy rồi!

Ngày 29 tháng 4:
9 giờ sáng:

Chúng tôi qua Phòng họp của Ban Liên Hợp Quân sự không bị trúng đạn pháo, từ đó mới xử dụng được đường dây điện thoại để báo cáo đi các nơi về thiệt hại vật chất và nhân mạng đêm qua..

Đến 9 giờ sáng thì có một chiếc trực thăng Mỹ (sơn toàn trắng) đáp xuống ngay trước phòng họp để bốc chúng tôi đi. Nhưng không hiểu sao tôi lại không chịu đi. Và tôi cho trực thăng nầy di tản 6 sĩ quan của toán thanh tra ngừng bắn, người Nam Dương.

Tôi vẫn còn nhớ ơn đại tá Abbas, Phó trưởng đoàn và trưởng phòng Tình Báo của phái đoàn Nam Dương nầy đã 2 lần đích thân kín đáo trao cho tôi bản đồ trận liệt ghi rõ tiến trình xâm nhập vào Miền Nam của đầy đủ 16 sư đoàn chánh quy bộ binh Bắc Việt và các sư đoàn thiết giáp và sư đoàn pháo binh nặng, vừa được cập nhật vào đầu tháng giêng năm 1975.

- lần đầu ngày 3 tháng giêng 1975. (tôi đích thân mang tay lên trình cho Tổng Thống Thiệu ngày 4 tháng 1, với lời giải thích miệng rất đầy đủ theo đúng tin tức tình báo mà phái đoàn Nam Dương đã sưu tầm rất chính xác và rất đầy đù, (nhưng sau đó tôi đã không thi hành lệnh của Tổng Thống, chỉ vì ông bảo tôi phải mang sang cho Trung tướng Đặng văn Quang)

- lần thứ hai ngày 1 tháng 3, với chú thích về mục tiêu tiến chiếm dự trù của cộng sản là Ban Mê Thuột. Đây là tin tức hết sức chính xác về mục tiêu và thời điểm tấn công của Bắc Việt: tiến chiếm Ban Mê Thuột vào tháng 3/75. Tôi cũng đã mang tay bản đồ và tin tức nầy đến trình cho Tổng Thống Thiệu, nhưng lần nầy thì ông bảo tôi mang sang cho Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng.. Tôi đã y lệnh thi hành. Dĩ nhiên tôi không biết với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội và Tổng Tham Mưu Trưởng hai ông đã có quyết định kịp thời về một "đường lối hành động" nào hay không. .

10 giờ sáng:

Tôi liên lạc với Đại tá Nguyệt, Hải Quân, để đưa một số sĩ quan và quân nhân các cấp, khoảng 30 người xuống tàu, di tản theo Hải Quân. Trong số nầy có các Đại tá Chuân, đại tá Đóa,v.v. thuộc Khối Nghị Hội / Ban Liên Hợp. Số anh em sĩ quan và nhân viên còn lại của Ban Liên Hợp, chúng tôi dự trù cũng sẽ xuống luôn bến Bạch Đằng khoảng 12 giờ trưa sau khi thu xếp việc tản thương xong cho một số anh em quân nhân và nữ trợ tá xã hội tử thương và bị thương đêm qua.

11 giờ 30 sáng:

Chúng tôi nghe thấy có tiếng súng liên thanh từ dưới đất bắn lên các phi cơ đang cố gắng cất cánh khỏi phi trường. Anh em cho biết là chiếc xe jeep mui trần có gắn liên thanh 12 ly 7 của đại úy Quân Cảnh / Phi trường đang nằm ngay giữa các phi đạo bắn lên bất cứ loại phi cơ và trực thăng nào muốn cất cánh rời khòi phi trường. (sau ngày 30/4, đích thân tôi gặp đại úy Quân Cảnh nầy, mang súng lục đang đứng gác ngay tòa nhà Quốc Hội ở đường Tự Do. Thì ra đây là một tên cộng sản nằm vùng đã nhận lệnh của cộng sản từ trại Davis trong công tác ngăn chận không cho phi cơ cất cánh từ khuya ngày 29 tháng 4.)

Chúng tôi lên xe đi xuống Hải Quân để kịp lên tàu với đại tá Nguyệt. Nhưng lúc vừa đi ngang qua Bộ Tổng Tham Mưu (đúng 12 giờ trưa) thì không biết tại sao thình lình tôi lái xe Jeep của tôi rẽ trái đi vào cổng Tổng Tham Mưu. Hai xe jeep và 2 xe 4/4 trong đoàn xe của tôi dĩ nhiên phải vào luôn cổng theo xe của tôi.

Đến ngay Bộ Chỉ Huy Pháo Binh, chúng tôi ngừng xe lại và tôi vào ngay Hội trường của Bộ Chỉ Huy nầy tìm chỗ nằm xuống đánh một giấc ngon lành không còn biết ất giáp trời trăng gì nữa, có lẽ vì quá mệt mỏi. Tất cả anh em sĩ quan theo tôi từ Tân Sơn Nhất (trong số nầy có đại tá Nguyễn ngọc Nhận, đại tá Lộc, pháo binh thuộc Ban Liên Hợp quân sự Cần Thơ, trung tá Chữ Nam Anh, trung tá Hoàng chánh văn phòng v.v.) đều theo tôi vào hết trong hội trường vắng trống nầy.

Đến 4 giờ chiều, thình lình tôi thức dậy và đinh ninh mình đang ngủ dưới tàu của Hải Quân nên lên tiếng hỏi:

Tàu của chúng ta đã chạy đến đâu rồi? đã ra khòi sông Lòng Tão chưa?

Chạy đến Hội trường của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Tổng Tham Mưu rồi! Trung tá Hoàng vừa cười mai mỉa vừa trả lời.
Tôi bàng hoàng đứng ngay dậy quan sát thì rõ ràng thấy mình đang ở giữa Bộ Tổng Tham Mưu. Bèn ra lệnh:
Anh em lên xe ngay đi để xuống Bến Bạch Đằng chắc còn kịp vì đại tá Nguyệt chắc chắn còn đợi tôi.
Không kịp nữa rồi ông ơi, Bộ Tổng Tham Mưu đã khóa cổng và có lệnh không cho ai ra vô gì nữa hết, chúng tôi đã thử mấy lần muốn ra rồi mà không được.
Vậy là chết rồi! anh thử liên lạc với ông Nguyệt thử coi? ở số nầy nè!
Trung tá Hoàng cố gọi chừng 15 phút mà không nghe ai trả lời.. . .
Thế là số mạng bắt ta phải ở lại đây rồi! (tôi chán nản nghĩ thầm như vậy khi sực nhớ lại không biết vì lý do gì mà mình tự nhiên lại rẽ vào cổng Bộ Tổng Tham Mưu lúc 12 giờ trưa nay thay vì cứ phải chạy thẳng xuống Bến Bạch Đằng để xuống tàu. Về sau nầy tôi mới được biết là đại tá Nguyệt chỉ vì chờ tôi không chịu nhổ neo tách bến nên phải bị anh em binh sĩ Hải Quân khiêng xuống tàu và rời bến lúc 2 giờ trưa )

7 giờ chiều

Trung tướng Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham mưu trưởng, cho người xuống gọi cá nhân tôi và đại tá Nhận lên văn phòng của ông để nhận việc. Lúc đó tôi mới biết được là ở Bộ Tổng Tham Mưu hiện giờ không cón Tham mưu Trưởng, không còn một số trưởng phòng quan trọng nào nữa như P1, P2, P3 và P4. Tất cả đều đã tìm phương tiện di tản hết rồi, chỉ còn sĩ quan xử lý thường vụ mà thôi. Không cần suy nghĩ tôi cũng đã thấy được tình hình chung như thế nào rồi.

Đại tá Nhận được trung tướng Vĩnh Lộc ép nhận chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vẫn không chịu nhận bất cứ một nhiệm vụ nào, ít nhất trong hiện tại, vì đã dự định nội nhật ngày mai là phải rời khòi Bộ Tổng Tham Mưu để tìm phương tiện di tản.

8 giờ 30 tối:

Các trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ồ ạt đáp xuống D.A. O. (Phòng Tùy viên Quân Lực Mỹ) ở ngay phía sau lưng tòa nhà chánh của Bộ Tổng Tham Mưu để bốc người Mỹ theo đúng tiến trình hành quân di tản của Hoa Kỳ. Không có một tiếng súng nhỏ lớn hay hỏa tiễn phòng không nào của Bắc Việt từ dưới đất bắn lên, điều nầy cho thấy rõ là giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đã có một mật ước nào đó rồi cho thời gian và lộ trình di tản của Hoa Kỳ.

Có tiếng loa kêu gọi từ các trực thăng lúc họ bay ngang qua không phận Bộ Tổng Tham Mưu: Ai muốn được di tản thì cứ qua bãi đáp trực thăng bên D.A.O. ngay phía sau Bộ TTM. Có một số sĩ quan và nhân viên của Ban Liên Hợp (đang ở đây với tôi) đã nghe rõ tiếng loa kêu gọi từ trực thăng và đã vượt rào kẽm gai của Bộ Tổng Tham Mưu đến bãi bốc trực thăng bên D.A.O. (khoản 40 thước đường) trong số đó có Đại tá Lộc, trung tá Hoàng và một số sĩ quan cấp úy khác. Riêng tôi thì không thích "chui rào" như họ, (có lẽ vì tự ái cá nhân hay vì số mạng không biết )

Ngày 30 tháng 4:
6 giờ sáng:

Do đó, sáng ra kiểm điểm lại thì chỉ còn có tôi với trung tá Chử Nam Anh và một số chừng 10 binh sĩ mà thôi. Những người khác thì đã được trực thăng Mỹ di tản đêm qua rồi. Cùng tôi lên xe sẵn sàng ra cổng Bộ Tổng Tham Mưu.

7 giờ sáng:

Nhân lúc xe của trung tướng Vĩnh Lộc và đại tá Nhận ra cổng, chúng tôi tháp tùng theo xe nầy luôn, vì nếu không thì sẽ bị chận lại không ra khỏi đây được nữa theo tiêu lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu.

Ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu là chúng tôi chia tay nhau, tạm gọi là "đường ai nấy đi" vì tới giờ phút nầy chúng tôi hình như đã linh cảm được số phận của Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao rồi!

Tôi lái xe về nhà người em họ ở Cư xá Đô Thành (Bàn Cờ) dự trù sẽ thay quần áo và nghỉ ngơi trước khi tìm được phương tiện di tản. Tình hình quân sự và chánh trị thì đã quá rõ ràng rồi, bây gờ chỉ còn xem con đường nào thuận tiện nhứt để thoát khỏi đây thôi. Phương tiện nào đây? Tàu hay phi cơ? Bằng tàu thì hoặc phải xuống Bến Bạch Đằng và Nhà Bè, hoặc phải ra tận Vũng Tàu hay Gò Công? Bằng phi cơ thì chỉ có ra tòa đại sứ Mỹ.. Vậy ta phải đi một vòng xem sao rồi mới quuyết định được. Đang ngồi suy tính một mình thì thằng em họ kêu cho hay là có lệnh mới rồi.. Lệnh của Tổng Thống và của Tổng Tham Mưu trưởng..

11 giờ trưa

Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố Miền Nam Việt Nam "đơn phương ngừng bắn vô điều kiện", một cách chơi chữ để nói lên một sự "đầu hàng Cộng sản Bắc Việt không có điều kiện (nhưng đó mới thực sự là điều kiện của Bắc Việt đã trao cho ông), và ngay sau đó tướng Nguyễn hữu Hạnh với tư cách là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH lên tiếng trên đài truyền hình và đài phát thanh Sài Gòn, ra lệnh đơn phương ngừng bắn cho các đơn vị còn đang chiến đấu và kêu gọi quân nhân các cấp phải buông súng xuống!

Lắng tai nghe đi nghe lại những lời tuyên bố của hai tướng Minh và tướng Hạnh tôi vừa đau khổ vừa bùi ngùi nghe theo lời khuyên của em mình, trút bỏ bộ quân phục thân yêu của mình trong suốt gần 25 năm trong quân đội, xong mượn chiếc xe Honda của thằng em vội vàng phóng ra cửa. Tôi nghĩ bụng: Thôi thế là coi như xong hết rồi, không biết cái gì sẽ xảy ra sau chuyện đầu hàng quá nhục nhã nầy? Thương thuyết chăng? Chánh phủ Liên Hiệp chăng? Chắc chắn là không rồi. Hàng ngàn chiếc xe xe tăng T.54 từ Bắc Việt vào đây tức là cộng sản Bắc Việt nhất quyết đã chọn giải pháp quân sự rồi thì làm gì còn có giải pháp chánh trị? Và đối với mộng bành trướng bá quyền của Cộng sản thì đâu có chuyện anh MTGPMN nhảy vào ngồi mát ăn bát vàng của họ được? Tôi vừa đi vừa suy nghĩ mông lung.. tự nhiên thấy mình trở lại gần Bộ Tổng Tham mưu lúc nào không hay. Nhân tiện tôi đi vòng qua hướng Lăng Cha Cả để theo đường Trương minh Giảng xuống Sài Gòn.

Lúc nầy đã quá 1 giờ trưa rồi. Đường xá vắng tanh, dân chúng rút hết vô nhà đóng kín cửa. ngoại trừ bọn hôi của còn đang lăng xăng lục lạo và khuân vác từng biệt thự do người Mỹ mướn ở, hay các nhà vô chủ, của những người dân quá sợ cộng sản đã bỏ đi hoặc di tản hay đang tìm đường di tản ra ngoại quốc.

Tuy không còn nghe tiếng đạn pháo hay rốc kết liên tục nhưng vẫn còn lác đác một vài tiếng súng cá nhân hay một vài tràng liên thanh đâu đó từ hướng trại Hoàng hoa Thám của anh em Dù. Tôi còn nhớ lúc rời khỏi Ban Liên Hợp Quân sự ngày hôm qua, tôi còn chứng kiến được một số hành động anh dũng của anh em "Biệt kích 81 Dù" đã bắn hạ 13 chiến xa T.54 của Bắc Việt từ Lăng Cha Cả lên hướng Củ Chi khi các đơn vị Bắc Việt tấn công vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm cách đột nhập ngang hông vào Tân Sơn Nhất. Hôm nay xác những chiếc tăng T.54 vẫn còn ngổn ngang ở vùng nầy, và tiếng súng cá nhân vẫn còn lẻ tẻ mặc dầu đã có lệnh đơn phương ngừng bắn của QLVNCH từ 11 giờ sáng nay.

Đường Trương minh Giảng vắng tanh không một bóng người, không một chiếc xe nào chỉ thấy có một vài xác chết rải rác ngoài đường, gần cầu, hình như của bọn đặc công Bắc Việt.

Khắp các nẻo đường mà tôi đi qua, trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn và cả Gia Định, tôi quá đau lòng mà thấy cảnh không biết bao nhiêu là súng ống đạn dược đủ loại, quân phục đủ màu đủ sắc của mọi binh chủng được vứt bỏ ngổn ngang từng đống hay bừa bãi, rải rác khắp các vỉa hè, các thùng rác, cống rãnh.. có lẽ đây là một cách vừa thi hành, vừa phản đối lệnh buông súng đầu hàng của tướng Minh và tướng Hạnh. . . .còn đang ra rả kêu gọi liên tục trên đài phát thanh. Càng đau lòng hơn khi thỉnh thoảng tôi bắt gặp một số người chạy long nhông ngoài đường, hầu hết chỉ có một quần cụt trên người, có khi trần truồng như nhộng, chắc chắn họ là quân nhân, vì họ luôn miệng chửi thề tục tỉu vang trời, chửi cả bọn chiến thắng Bắc Việt lẫn người chủ bại đan tâm khóa tay Quân đội để đầu hàng cộng sản!

Bến Bạch Đằng và Nhà Bè vắng tàu nhưng không vắng người vì còn một số quá đông đang còn lóng nhóng chờ... tàu từ Tân Cảng xuống. Nhưng tôi nghĩ chắc chắn không còn chiếc nào.

Tôi vào Bình Đông (Chợ Lớn) để thử tìm đưởng bộ xuống Gò Công. Nhưng cảnh sát dã chiến ở chốt đầu cầu đã được lệnh khóa cổng từ 6 giờ sáng nay không cho một ai qua khỏi cầu. Trở về Phú Lâm, tôi cũng bị chốt cảnh sát dã chiến ngăn chận, như thế có nghĩa là từ 6 giờ sáng nay đã có lệnh khóa hết mọi con đường ra khỏi Đô thành, khó mà dùng đường bộ được, và cũng có nghĩa là bọn cộng sản Bắc Việt đã bao vây chặt thủ đô nầy rồi.

Như thế là coi như tôi không còn khả năng và phương tiện nào thoát ra khỏi thủ đô Sài Gòn nữa bằng cả 3 đường bộ, đường thủy và đường bay. Thôi thì đành phải ngồi yên để chờ xem diễn tiến sắp tới tức là ngồi chờ xem Cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô mà thôi!! Nghĩ thế tôi quay xe trở về Bàn Cờ.

Trên đường về, đột nhiên tôi nghe mấy tràng đại liên ròn rã ở hướng nhà thờ Sài Gòn. Quá tò mò tôi muốn đến xem nhưng gần đến nhà thờ thì nghe tiếng chiến xa chạy rầm rập ở hướng đại lộ Thống Nhất. Tôi biết là chuyên gì đã xảy ra rồi, nhưng quá đau lòng đến độ không thể nào dám chạy đến đó để xem, tôi vội chạy về Bàn Cờ ngay.

6 giờ chiều:

Tôi có ý định lên Hạnh thông Tây, vào thăm Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp của mình. Nhưng khi vừa qua khỏi sân Golf ở phía sau Tổng Tham mưu thì một cảnh tượng quá đau lòng làm tôi phải ngừng xe lại ngay. Từng nhóm thương bệnh binh dìu nhau đi bộ từ cổng Tổng Y Viện Cộng Hòa. Hỏi ra tôi mới biết là từ 5 giờ chiều nay, một toán quân Bắc Việt đã vào tiếp thu Quân Y Viện mà họ liệt vào hàng "chiến lợi phẩm chiến tranh". Người sĩ quan tiếp thu ra lệnh cho tất cả đều phải ra khỏi bệnh viện, và "ngay tức khắc" không được chậm trễ, không được mang theo bất cứ thứ gì kể cả xe cộ đủ loại, vì tất cả đều là của Mỹ Ngụy, không do cá nhân mua sắm, ngoại trừ quần áo đang mặc trên mình.

Tất cả mọi người, từ các bác sĩ quân y, các nam nữ y tá, trợ tá xã hội, lao công dân chính v.v. cho đến thương bịnh binh đủ loại, không cần biết tình trạng bệnh lý, đã được chữa trị hay chưa, vết thương đã mổ hay chưa? lành hay chưa lành? v.v. Thật quá khủng khiếp cho những anh em thương binh vừa được chuyển từ mặt trận về, vừa được lên bàn mổ hay vừa được mổ mà chưa khâu xong vết mổ, còn đang nửa mê nửa tỉnh.. đều phải ôm vết thương lang thang xuất viện mà không biết phải đi về đâu? nhà ở đâu mà về? Gia đình có đâu mà về? đơn vị ở đâu mà về? Vì họ được tản thương về đây từ mặt trận.

Đây là một câu chuyện thê thảm nhất trong lịch sử chiến tranh quốc cộng, giữa Nam Bắc Việt Nam, giữa người Việt Nam với nhau. Ngay như trong cả 2 thế chiến, người ta cũng không có lối cư xử quá tàn bạo và nhẫn tâm vô nhân đạo như thế, huống là giữa những người Việt Nam cùng một dòng máu Lạc Hồng?

Để giúp cho những người khốn khổ nầy, chúng tôi và một số dân chúng quanh chùa Vạn Hạnh (Phú Nhuận) kêu gọi được một số xe tư nhân, xe tắc xi, xích lô máy, xích lô đạp.. đưa giùm một số thương bịnh binh nặng, đang trong tình trạng giải phẫu dở dang.. đến các bệnh viện Đô Thành, Nguyễn văn Học, Chợ Rẫy, Grall và một số bệnh viện tư của người Hoa ở Chợ Lớn, kể cả 2 bệnh viện tư nhỏ của hai bác sĩ Nguyễn văn Tạo, Nguyễn duy Tài ở đường Pasteur.. để nhờ tạm chữa trị tiếp, chờ ngày cho họ về với gia đình..

Giờ nầy thật tình thời gian đã trôi qua quá lâu rồi, gần 30 năm rồi, thử hỏi dân chúng Miền Nam cũng như người Việt Nam ở hải ngoại nầy còn có mấy ai biết đến và nhớ đến một buổi chiều thê thảm nhất của anh em quân nhân chúng tôi, nhất là những anh em thương bịnh binh thuộc QLVNCH đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa đã bị xua đuổi thẳng tay một cách vô nhân đạo ra khỏi bàn mổ hay khỏi giường bịnh, do sự tiếp thu của Cục Quân Y của Quân Đội Nhân Dân BV? vào ngày 30 tháng 4 /1975 mà cộng sản gọi là ngày chiến thắng của họ trong chiến dịch xâm lăng Miền Nam Việt Nam có tên gọi là chiến dịch Hồ chí Minh!!!

Đêm nay về Bàn Cờ nghỉ tạm, tôi không có một chút hứng thú nào khi ngồi trước một bữa cơm ngon của gia đình, tôi cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ được chỉ mong cho trời mau sáng để được xem tận mắt cảnh "đổi đời"! Ước gì cảnh đó phải hoàn toàn khác hẳn cảnh mà tôi đã đích thân chứng kiến chiều hôm qua ở Gò Vấp!

Ngày mồng 3 tháng 5/ 1975

Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ thư viện Quốc Gia. Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ "Văn Hóa đồi trụy" :

Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là "ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy" ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con "cọp 30"), tại Sài Gòn Chợ Lớn thì mỗi quận một tiểu ban, ở các tỉnh thì mỗi tỉnh một tiểu ban.

"Văn hóa đồi trụy" được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v... đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga).

Mục tiêu mà các "ông cọp 30" nhắm vào trước tiên là Thư viện quốc gia (national library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và Encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành Công Pháp quốc tế, Khoa Học Kỹ Thuật, Hàng Không và cả khoa học Không Gian,v.v... mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của Đất Nước, trong phút chốc bị "cọp 30" xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ Encyclopedia lên xem mà ứa nước mắt... nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay một "cọp 3O" khoảng 16 tuổi tới đuổi:

"Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta Độc lập rồi thì Ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!!"
Tội nghiệp! Thật là tội nghiệp!!!
(Về sau mãi cho đến 1992 lúc chúng tôi sắp rời khòi VN, thì thư viện quốc gia nầy vẫn còn được cộng sản dùng làm "mặt bằng" cho mướn làm tiệc cưới và tiệc "liên hoan" của cán bộ công nhân viên các cấp).

Mục tiêu kế tiếp của bọn "cọp 30" là Thư Viện Bộ Giáo Dục, các nhà sách ở khu chợ Bến Thành và dài dài vô đến Chợ Lớn... sau đó tiểu ban đi xét từng nhà khắp đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, ai sợ thì cứ tự mình đốt, bỏ... nếu xét gặp thì chắc chắn phải gặp khó khăn với mấy "ông cọp 30 trẻ" nầy.

Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại "nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai", cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v.. cũng phải được duyệt xếp loại lại (Bà Thiếu tá Cách Mạng đào hát Kim Cương phụ trách phần nầy).

Nói tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của Mỹ Ngụy từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng, không cần biết có hợp với dân tộc Việt Nam hay không và cũng không cần lượng xét hậu quả sẽ như thế nào (có nghĩa là thay vì đẩy Miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của Miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi Miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau... nhằm đưa đất nước Việt Nam vào con đường xã hội chủ nghĩa đúng theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng. Mãi cho đến cuối thập niên 80, lúc tôi ra khỏi trại tù cải tạo, lãnh đạo đảng Nguyễn Văn Linh nhờ chạy theo phong trào "đổi mới" của Liên Xô, mới chịu mở mắt ra và chừng đó mới thấy được là đảng cộng sản đã kéo cả đất nước và dân tộc Việt Nam đi lùi vào thời kỳ đồ đá... từ sau ngày cướp được chánh quyền mùa thu năm 1945 và nhất là để mất đi một cơ hội và một thời gian quá dài từ sau ngày nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam 30 tháng 4 1975.)

Ngày 4 tháng 5

Tôi đến nhà của Ngô công Đức vì nghe tin anh ta mới từ bên Pháp trở về Sài Gòn qua ngã Lào, Hà Nội (mang theo chiếc xe đạp). Đến nhà anh mới được biết là người vợ của anh đã sang ngang không biết vì lý do gì, (có thể vì hành động phản chiến của anh.) Đến đây tôi may mắn được gặp lại một người bạn thân, trung tá Nguyễn văn Binh, cựu quận trưởng quận Gò Vấp, (anh rễ của Ngô công Đức) may mắn có mặt tại Dinh Độc Lập từ sáng ngày 30/4, nhờ vậy tôi mới được biết thêm một vài chi tiết liên quan đến chuyện bộ đội Bắc Việt vào tiếp thu Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4. Tôi phải ghi lại gần như nguyên văn lời của ông bạn Nguyễn văn Binh của tôi như sau :

"Sau khi chiến xa T.54 ủi sập một bên cổng chính của Dinh Độc Lập, (theo suy đoán của anh Binh thì đây là một hành động tượng trưng cho chiến thắng quân sự cuối cùng và quyết định của cộng sản Bắc Việt ) một số bộ đội tràn vào sân thượng hạ cờ VNCH xuống và treo cờ MTGPMN lên (chưa phải là cờ đỏ sao vàng của Bắc Việt ), một sĩ quan Bắc Việt có bộ đội hộ tống ập vào đại sảnh, nơi mà Tổng Thống Dương Văn Minh đang có mặt cùng với những người cộng sự viên thân tín nhứt trong Chánh Phủ của ông. Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân Miền Bắc, nên ông Minh tưởng rằng mình đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp.

-"Thưa quan sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông"

Sĩ quan nầy dùng danh từ "mầy tao" xẵng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:

- "Mầy dám nói là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy làm gì có "quyền" nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng nầy đây. Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chánh trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!

Mặt tướng Minh co dúm lại. ông chợt hiểu là ông không gặp được những người của MTGPMN mà là những người cộng sản Bắc Việt, dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe. Không phải là những người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống, mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt và họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như một kẻ thù thất trận!

Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và dịu dàng hơn ông nói tiếp:

- "Chúng tôi đã có dự trù sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua...

Vị trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẵng giọng:

- "Bọn bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mầy lại đi. Chúng tao đã có cơm dã chiến của chúng tao, một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn"

Sau đó sĩ quan nầy ra lệnh nhốt tất cả các tổng trưởng hiện diện vào một gian phòng, sau khi đã cho lệnh khám xét rất cẩn thận và không khoan nhượng trước sự hiện diện các nhà báo ngoại quốc đang làm nhiệm vụ quay phim, chụp ảnh lia lịa cảnh tượng lịch sử nầy.

Sau đó ông Minh bị "bộ đội" bao quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh và máy quay phim của báo chí. Ông được đưa đến đài phát thanh để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú Lâm,...

Đến 13 giờ, tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt dưới tầng hầm. "

Cũng vẫn theo lời của anh bạn tôi:

- Ông Nguyễn Văn Hảo đương kim Tổng trưởng Tài Chánh đã có mặt tại dinh Độc Lập ngày 30/4/75 với tướng Dương Văn Minh, cùng với nội các của ông Vũ Văn Mẫu và một số nhân sự phản chiến tự xưng là thành phần thứ ba (như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ, Võ Long Triều,v.v...). Khi ông Minh được đưa trở về đến Dinh Độc Lập thì ông Hảo lên tiếng, nói một câu "bất hủ" với sĩ quan chỉ huy Bắc Việt rằng:

-"Tôi còn ở đây chờ quí vị, để trao cho quí vị một món quà, đó là trên 20 tấn vàng".

Vị sĩ quan đó đáp ngay tức khắc:

-"Đó không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải tịch thu, mầy hãy trao ngay cho tao đi!".

Và ông Hão đã dẫn người nầy đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ngay chiều ngày 30/4/1975, trao 3 chìa khóa hầm vàng cho đại diện Bắc Việt, để chỉ dẫn họ cách thức lấy 20 tấn vàng dằn kho của VNCH ở Ngân Hàng nầy. Sau đó ông Hảo vẫn bị đưa về nhốt chung với các vị Tổng trưởng khác".

..................

Ở nhà của Ngô công Đức, tôi được chứng kiến một cảnh "ngu dốt" của một toán bộ đội Bắc Việt, nói lên tình trạng quá lạc hậu đáng thương hại của người dân Miền Bắc nói chung:

Trong lúc tôi và anh Binh anh Đức ngồi ở phòng khách trò chuyện thì có một toán chừng 6 anh "bộ đội" ập vào nhà "khám xét".

Người chỉ huy cầm trong tay cái điện thoại và hách dịch hỏi anh Đức :

Cái "đài" nầy là của anh?
Phải, của tôi
Anh làm "chức vụ" gì lớn lắm của Mỹ Ngụy mà có cái "đài" nầy? anh dùng cái đài nầy để liên lạc với Mỹ Ngụy và với CIA phải không? Tôi phải bắt anh ngay về cơ quan để "làm việc", mặc áo vô đi rồi theo tôi ngay. (vì lúc đó anh Đức ở trần)
Xin lỗi anh tôi không đi đâu hết, cái nầy là cái điện thoại chớ không phải cái đài.
Đồ ngoan cố, cái nầy là cái điện đài, tôi được lệnh bắt anh, vì trong nhà anh có một cái điện đài mà không chịu đi khai báo.. . .
.. . . . . . .
Tôi rời khỏi nhà anh Đức trưa hôm đó, lòng suy nghĩ miên man. Thật tội nghiệp cho cái anh chàng phản chiến Ngô công Đức nầy, giờ nầy chạm mặt với thực tế có lẽ anh mới sáng mắt thấy rõ trình độ của người dân Miền Bắc và mức độ giáo dục và ảnh hưởng tuyên truyền nhồi nhét của cộng sản là thế nào đối với dân chúng..! Tội nghiệp cho cái anh bộ đội quá ngu dốt nầy, và cũng thật quá tội nghiệp cho người dân Miền Nam của mình trong những năm tháng sắp tới... có lẽ phài chịu sống đau khổ triền miên vì cái tình trạng ngu dốt của kẻ xăm lăng thống trị, đến từ Miền Bắc...
Ngày 5 tháng 5/75

Tôi quyết định đến nhà anh chị bác sĩ Nguyễn văn Tạo ở đường Pasteur để tạm trú và tạm lánh mặt chờ ngày 15 tháng 6 là ngày trình diện đi "học tập". Ở đây có lẽ yên hơn là về Sadec (gia đình tôi) hay Cai Lậy (gia đình bên vợ tôi), dù sao ở ngay Sài Gòn chắc không bị những màn trả thù rùng rợn như ở tỉnh, như một số tin tức mà tôi được biết cho tới ngày hôm nay.. (như ở ngay tĩnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều bị họ kết án là "có tội với nhân dân" mà không thông qua một tòa án nào, và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mã tấu...Riêng anh trung úy Dù Nguyễn văn Ngọc ở xã Long Hồ, dù đã chết từ hơn một năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ ở Ngã Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn.)

Sáng nay tôi phải lên thăm một thiếu tá tuyên úy Phật Giáo, đang là trụ trì tại một ngôi chùa ở Hạnh Thông Tây, và là người có trách nhiệm lo mọi công tác hậu sự cho quân nhân các cấp không may bị tử thương, và hằng ngày lo chăm nom săn sóc nơi an nghỉ cuối cùng của anh em quân nhân chúng tôi là "nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây" nằm ở đối diện không xa với chùa nầy.

Đưa tôi vào chánh điện lạy Phật xong ông dẫn tôi lên phòng riêng và khi chỉ còn có hai chúng tôi thì ông nín không nổi nữa, bật lên khóc sướt mướt, ấp úng nói không thành lời. Sau một lúc khá lâu bình tâm trở lại ông mới nói rõ cho tôi nghe là không phải ông khóc vì chuyện "mất nước", nhưng khóc vì động lòng từ bi trước cảnh mồ mả trong nghĩa trang quân đội mà ông có trách nhiệm săn sóc đã bị cộng sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày mồng 3 tháng 5 vừa qua.

Mặc cho sự van xin cầu khẩn của ông (trong bộ áo nâu sòng của một thượng tọa) họ vẫn san bằng hết từ nhà xác, nhà liệm xác, nhà nguyện cho đến ngôi mộ cuối cùng...... Ông vừa nói vừa tức tưởi khóc:

" Không hiểu sao họ quá tàn nhẫn như vậy? Họ nói là để lấy đất mà trồng trọt để nuôi nhân dân đang đói nghèo. Đất rộng như vầy, màu mỡ như vầy mà làm nghĩa địa thì phí của trời quá... độc ác với nhân dân quá!"
Thật tội nghiệp cho vị tuyên úy Phật Giáo nầy. Ông quá thật tình, nhìn sự việc qua lòng từ bi của một tu sĩ, nên không hiểu là hành động nầy phải xuất phát từ chủ trương và chánh sách của người cộng sản mà nhất là cộng sản Miền Bắc, đội quân tiền phong của Quốc tế Cộng sản Đệ Tam Nga Tầu.! Dù họ là người Việt Nam nhưng tư tưởng, hành động và nhất là lương tâm của họ ngày hôm nay không còn thuộc về họ nữa. Họ phải theo đúng giáo điều Mác Lê, theo đúng lệnh của Staline, của Mao trạch Đông là những quan thầy trực tiếp điều khiển họ trong cuộc chiến tranh bành trướng về phương Nam nầy.
Ông bạn tuyên úy của tôi cũng chất phác như người dân Miền Nam đã từng cho những lời "tố cộng" của chánh quyền hay của Phòng Chiến Tranh Chánh trị là những chuyện "đặt điều" cốt để tuyên truyền tác động tinh thần của quân cán chính Miền Nam. Bây giờ chỉ mới giáp mặt với một vài hành động của họ thôi, rồi đây có lẽ từ từ rồi họ sẽ thấy được bộ mặt thật của con người cộng sản nầy. Nhưng từ hôm nay cho đến đó người dân Miền Nam chúng ta chắc còn sẽ phải chịu nhiều cảnh thương đau cùng cực nữa... trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của họ.

Tôi mời ông thiếu tá tuyên úy bạn tôi cùng lên nghĩa trang Biên Hòa để xem thử là họ đã ủi nghĩa trang quân đội ở đây chưa? Theo tin ông đã nhận được thì hình như họ cũng đã thực hiện công tác nầy rồi, cũng vào ngày 3 tháng 5.

Có đi đến nơi chúng tôi mới thấy rõ được hiện trạng. Thật là thê thảm! Trước hết là tượng hình của một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến qua tượng đài "Thương Tiếc", một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật rất có giá trị đặt bên vệ đường ở mặt tiền của nghĩa trang quân đội đã bị cộng sản phá nát bằng cốt mìn, và ủi sạch không còn một chút dấu vết..Cả nghĩa trang rộng lớn cũng đã biến thành bình địa!

Trên đường về Hạnh Thông Tây cả hai chúng tôi yên lặng không trao đổi một lời nào, tôi tin chắc là cảm nghĩ của một người tu sĩ đương nhiên phải khác hẳn với cảm nghĩ của một chiến binh như tôi. Dù sao khi về đến chùa, trước khi giã từ, tôi cũng nói rõ cho Thầy tuyên úy bạn tôi thấy được cảm nghĩ của tôi:

- Hành động quá ư tàn nhẫn đến dã man nầy thật không đúng là hành động của bất cứ người Việt nào nhất là ở Miền Nam Việt Nam. Từ ngàn xưa, đúng theo đạo lý và truyền thống của dân tộc Việt, người Việt Nam chúng ta ai cũng biết là "nghĩa tử là nghĩa tận" hay "chết là hết". Dù giữa cá nhân anh và tôi có thù hằn nhau cách mấy nhưng khi anh hay tôi có người đã nằm xuống rồi thì coi như mối thù đó được xóa bỏ vĩnh viễn, không ai còn muốn nhắc đến nữa. Vậy ủi hết mồ mả của quân nhân các cấp thuộc QLVNCH có nghĩa là gì đây? Nếu không muốn nói trước hết là nhằm "trả thù cho quân đội và nhân dân Miền Bắc"? sau đó lại "xóa sạch được vết tích của QLVNCH, người đã chết xóa trước, người còn sống xóa sau? trong chủ trương sửa lại toàn bộ lịch sữ trong tương lai đối với các thế hệ trẻ sau 1975, một trang sử đấu tranh dai dẵng của Quân Dân Cán Chính Miền Nam đã hy sinh làm tiền đồn ngăn chận làn sóng xăm lăng cộng sản, trong suốt gần 30 năm từ 1945 mà họ cần phải xóa bỏ? Tôi nghĩ chỉ có như vậy họ mới đan tâm có những hành động phi nhân đạo nầy. Và chắc chắn trên toàn bộ Miền Nam Việt Nam các nghĩa trang quân đội đều phải chịu chung một số phận. Dĩ nhiên rồi cũng phải đến số phận của chúng tôi... những chiến binh còn sống sót.

Nhưng ngày nào còn có một chiến binh QLVNCH còn sống sót như cá nhân tôi thì ngày dó cộng sản Bắc Việt đừng hòng sửa được một trang sử nào!!!

Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang "Hồi Ký Dang Dở" ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo này. 
Washington, những ngày giáp Tết năm Giáp Thân
Dương Hiếu Nghĩa