Friday, December 23, 2011

Bóng thời gian / MƯA TRÊN PONCHO




Lê-văn-Phúc
Bất cứ ai đã một thời ca bài “Ta đi tòng quân” đều không thể nào quên được đời lính. Trong đời lính, dù là lính già hay lính trẻ đều mặc bộ đồ trận, vui buồn theo tiếng kèn đồng đếm nhịp thời gian. Và một trong những món hành trang cần thiết thân yêu của người lính ngoài cây súng nhân tình, phải kể đến thành phần quân quân dụng này: Ấy là chiếc Poncho. Nhà binh gọi là “Pông Xô”.
Về hình thức, nó lớn bằng chiếc chiếu, mầu xanh cứt ngựa, làm bằng vải pha nylon gọi là vải ngụy trang, bốn cạnh chung quanh có lỗ, có khuy bấm bằng sắt.Chính giữa có một cái lỗ chui đầu làm thành cái mũ che, có giây buộc đàng hoàng.
Về nội dung, Poncho có công dụng chính là làm cái áo đi mưa. Khi trời bắt đầu nổi cơn mưa gió, người lính chỉ việc mở chiếc Poncho ra  chui đầu vào giữa, đội nón là xong. Phần còn lại của Poncho nó lùng tùng xòe quanh cổ, quanh vai, quanh người che chở từ súng đạn đến ba-lô rất ư kín đáo an toàn.
Nó dản dị đơn sơ như thế nhưng công dụng thì lại vô cùng đa diện. Đến ngay người sáng chế ra nó cũng không thể nào ngờ rằng Poncho được dùng trong nhiều việc như thế.
Với chiếc áo đi mưa nhà binh – Poncho -  mắc vào cành cây có thể làm chỗ che nắng che mưa khi canh gác một mình. Với hai chiếc Poncho  ghép lại  có thể thành một lều cho hai quân nhân tá túc. Với 4, 6 hoặc 8, 10 Poncho, dùng cọc dã chiến nối lại cho dài, dùng giây ghép Poncho cho kín là có một lều cho cấp tiểu đội, nom rất tư cách.
Khi quân ta sang sông trong một chiều hành quân, Poncho có công dụng như phép lạ. Nếu không có chuyến đò vĩ tuyến chuyển quân, nếu không có giây đu bắc ngang dòng nước ngược, nếu không có chiếc cầu khỉ, cầu treo... thì nhất định người chiến sĩ phải dùng đến chiếc Poncho làm phao di chuyển.
 Mở rộng chiếc Poncho ra, túm chặt lỗ chui  đầu lại, bao nhiêu ba lô  đạn dược tập trung vào đó. Xong bỏ vài cành cây khô cho cồng kềnh, gấp Poncho lại theo kỹ thuật nhà binh  làm sao cho kín mít, nước không lọt, thắt giây xong là Poncho chẳng khác gì một chiếc phao. Thả Poncho xuống nước, gác súng trên Poncho, người lính  ôm cái phao cá nhân tà tà sang sông rất là đẹp mắt.
Ngoài công dụng che nắng che mưa, làm phao nổi, lều cá nhân, lều tập thể, Poncho còn dùng làm  chiếu, làm nệm, có khi làm võng.
Trong các trại gia binh, anh em ở dưới mái nhà tôn nóng như lò bánh mì thì  lại có sáng kiến dùng Poncho làm trần làm vách cho vợ con đỡ được đôi ba phần nắng nôi gió máy.
Còn các cấp chỉ huy ở nhà gạch mái ngói không cần đến Poncho làm trần nhưng  nhiều vị có sáng kiến lấy Poncho may thành chiếc bạt phủ xe nhà cho khỏi bụi bậm, đỡ trầy nước sơn.
Những nhà dân giả, nhà binh, nhà quê thiếu ống máng hứng nước mưa thì Poncho  là cái phễu vĩ đại, hết sẩy!
Poncho cũng lan tràn đến cả chợ búa. Từ xa trông cảnh chợ, xanh xanh một mầu cả trăm chiếc Poncho  giăng mắc la liệt khắp nơi, nom tưởng như một tiểu đoàn đóng quân vậy. Lại gần mới thấy Poncho làm mái che cho hàng cá, hàng thịt, hàng rau, hàng quà, quán nhậu, hủ tíu bò viên, bún riêu bún ốc.
Poncho cũng di chuyển cùng chiều với các bạn đạp xích lô, kéo xe thồ, lái xích lô máy. Một chiéc Poncho thôi là đủ may chiếc áo mưa, vừa che đầu, che thân tới nữa người, gọn gàng và bền bỉ.
Poncho được chiếu cố tận tình như thế cho nên mức độ tiếp liệu dù cao, dù đúng hạn, dù mau lẹ vẫn không thỏa mãn được nhu cầu của quân đội và dân sự.
Các binh đoàn tiếp nhận xong, nhập kho, phân phối là Poncho đã chuẩn bị tan hàng. Một phần về đơn vị, một phần vào các khu dân sinh, chợ  Kim Biên, chợ cũ, chợ Ông Tạ...
Tại các tỉnh, các quận, tình trạng Poncho cũng tương tự như rứa.
Poncho chẳng những phổ biến rộng rãi, đa dụng trong tình quân dân cá nước mà còn  đóng một vai trò quan trọng tại các quân trường.
Ai đã một thời nhập trại Quang Trung, Đồng Đế, Thủ Đức mà không nhớ nhung kỷ niệm quân trường những ngày gió mưa tàm tã. Buổi sáng tinh mơ tập  họp trung đội, đại đội, tiểu đoàn mà nhằm ngày trời mây u ám gió cuốn tả tơi hoa lá thì anh em rất là một sự lục xục, lộn xộn, lạo xạo. Ai cũng nón sắt đội đầu Poncho chùm thân, đi đứng lù đù.
Khi anh em đi bãi về trong buổi chiều mưa, từng trung đội lạch bạch bùn đất, hàng ngũ trật tự nhưng không mấy chỉnh tề. Nếu có người yêu nào đó  đứng chờ, tìm kiếm người tình giữa chốn ba quân  thì có mà như đá vọng phu vẫn hoài công đứng đợi.  Bởi cả trăm người lính  xùm xụp Poncho trong hàng quân như thế, làm sao nhận ra được ai là người yêu của lính? Thế là hoa lạc giữa rừng gươm.
Nhưng bù vào những cái bất tiện như  rứa, Poncho cũng có lúc trở thành một nguòi bạn tâm phúc, đắc dụng.
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, quân trường nào cũng đầy ắp thân nhân bạn bè vào thăm tân binh, sinh viên sĩ quan. Ngoại trừ những ai được đi phép đặc biệt như chim sổ lồng, còn thì đa số nằm trong trại chờ người nhà đến thăm viếng.
Cái cảnh đồng bào ta lái xe nhà, đi xe đò, chạy Honda, Vespa, Lambretta, gắn máy đi thăm lính thật là ồn ào náo nhiệt.
Quà bánh thì nào là bánh mì, bánh bao, bánh ngọt, lạp xường xúc xích, cam táo chôm  chôm ổi mận trái cóc, sữa Guigoz, Similac...Có người đem khăn mặt, bàn chải đánh răng, xà bông, thuốc lá,dầu cù là, dầu thơm...
Tất cả cho lính!
Rồi người ta kéo nhau tấp nập vào cổng trường, ghi tên lấy thẻ, qua trạm kiểm soát rồi là coi như thong thả tới địa điểm dành cho từng đơn vị.
Về phía lính thì cả tuần tập tành, “quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, chỉ rình mong đến cuối tuần để được đón gia đình, bè bạn vào thăm viếng nên chuẩn bị rất ư là kỹ lưỡng. Có điều giống nhau, chả ai bảo ai, ai cũng cặp kè chiếc Poncho ra khu tiếp tân ngóng đợi thân nhân.
Thành phần thân nhân được phân định làm nhiều giới.
 Giới cổ điển là các ông bô bà bô đi thăm con thì được ngay anh tân binh hay sinh viên sĩ quan mời các cụ vào câu lạc bộ nghỉ đỡ chân. Nếu câu lạc bọ hết chỗ thì mời hai cụ quá bộ ra cạnh quán, trải chiếc Poncho là tạm xong phần nghênh tiếp. Bố con, mẹ con rủ rỉ chuyện trò, ăn uống lai rai cho đến hết giờ thăm viếng.
Giới thứ nhì là giới bán cổ điển với bầu đoàn thê tử đi thăm chồng vào lính trễ. Giới này thường trải Poncho dưới tàng cây cao bóng mát hoặc ở trong các khu tiếp tân tập thể, vợ chồng con cái đìu íu, chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con cái học hành, chuyện làm ăn buôn bán, chuyện hàng xóm láng tỏi, ồn ào như chợ Bến Thành hay chợ Cầu Ông Lãnh.
Giới thứ ba là giới  độc thân, toàn đàn ông con trai đi thăm con trai mà thôi. Giới này thường tụ tập tại câu lạc bo nhậu nhẹt  tán róc. Xong cái màn đó, các cậu lại rủ nhau ra lề đường, ngồi trên Poncho ngắm các em gái hậu phương đi thăm chiến sĩ, với lời bàn Mao Tôn Cương rất ác liệt.
Giới thứ tư là giới cô đơn, gồm những anh không có người nhà đến thăm, ôm chiếc Poncho đi lòng vòng khắp khu tiếp tân, ngong ngóng một chuyện gì như thể sắp xẩy ra mà lại mơ hồ như có như không mới khổ!
Giới thứ năm là giới chiến thuật mà mỗi người là một chiến thuật gia. Giới này thường chuẩn bị rất kỹ, nghiên cứu địa hình địa  vật và lựa chọn điểm đóng quân thật sớm. Thông thường, các vị trí này cách xa khu tiếp tân, xa các khu ồn ào nhiều kẻ qua người lại.
Họ lựa chọn chỗ vắng vẻ kín đáo, có tí mô đất, có tí cành cây để giăng chiếcPoncho hững hờ lơ lửng. Tuy chiếc Poncho nom ra vẻ lụp xụp, thiếu mỹ thuật thật đấy nhưng lại chứa đựng tất cả những gì gọi là nghệ thuật tinh vi và khoa học hiện đại. Giới chiến thuật này thường có đối tượng là người yêu của lính!
Khi những chiếc Poncho xanh mầu lá cây rừng rải rác vô trật tự họp lại mí nhau thành một chiến tuyến thì dưới những mái Poncho là những cặp tình nhân đang tỉ tê quyến luyến, thề non hẹn biển...
Thời gian lặng lẽ một dòng tưởng chừng buồn tênh mà hóa ra sống động,  vùn vụt như ma đuổi. Cho đến khi lá hoa về chiều, lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa, các đôi lứa  lại càng quyến luyến xoắn xuýt lấy nhau như sam, như chẳng muốn rời.
Nhất là vào những buổi chiều có tí gió mưa thì lại càng làm cho  lòng người thêm mưa gió.
Mây trời hạ thấp, những giọt mưa nho nhỏ rơi đều trên Poncho trong làn gió thoảng, đủ làm cho Poncho hạ thấp xuống một chút xíu nữa, như che gió che mưa cho cặp tình nhân tạm quên đi thế giới bên ngoài.
Chỉ thấy những mái Poncho lay động, bập bềnh, ngả nghiêng vội vã, trong khi  ngoài kia tiếng kèn thu quân đang dục giã liên hồi...
Cuộc hẹn hò nào rồi cũng chia xa.
Giới chiến thuật là đơn vị giải tán thành phần cơ hữu sau cùng, vơ vội ôm quàng chiếc Poncho ù té chạy về doanh trại.
Để rồi  người lính quân trường lại có những ngày chờ ngày đợi ngày mong. Mong sao cho chóng đến cuói tuần, cặp kè chiếc Poncho với nỗi lòng nao nức, rạo rực thương yêu của tuổi hoa niên  thời chinh chiến.
Như thế, quả nhiên chiếc Poncho đa dụng đa năng cho cả hai phía quân dân. Nó lại còn là một biểu tượng của đồng lõa, cho đời vẫn còn mầu hồng, còn một chút gì gọi chút dễ thương.
 Và rõ ràng  cụ thể nhất, nó chính làø kỷ vật cho em
Nghĩ thế, một hôm nhớ về quân trường cũ, kẻ này gặp một cựu nữ sinh hoa khôi, mới khẽ hỏi xem nàng nghĩ thế nào về chiếc Poncho  đối với tuổi trẻ ngày xưa?
Người đẹp bỗng nhiên má đỏ hồng hồng, mắt sáng trong trong, thỏ thẻ đáp rằng:
- Poncho! Poncho! Ồ, thật là kỳ diệu... 



Ponchos Buồn

Bảo Định

       Không biết từ bao giờ, chiếc áo poncho đã trở thành chiếc áo đi mưa của người lính VNCH. Thời chiến tranh Việt -Pháp, người lính Pháp dùng áo đi mưa bình thường như ta vẫn dùng, nhưng màu sắc là màu kaki.  Bộ đội Việt Minh thì dùng "tơi" làm bằng lá cọ, rất bất tiện.  Về sau họ được trang bị bằng tấm vải nylon được lén lút mua từ vùng "Tề".  Trong những món quân trang được cấp phát cho người lính, có tấm poncho màu ô-liu, dùng để làm áo đi mưa.  Ý nghĩ đầu tiên của người lính giản dị chỉ có thế.  Nhưng khi vượt sông, người lính được chỉ cách dùng tấm poncho, gói tất cả ba lô, quân trang quân dụng, cột túm lại để trở thành cái phao mà vượt qua dòng nước.  Khi đi hành quân, với hai tấm ponchos nối lại với nhau, một sợi dây căng dùng làm đòn dong, người lính đã có một "túp lều lý tưởng của anh và của em", của ba người lính, hay ba chàng "ngự lâm pháo thủ".  Vì cần thêm một người lính nữa chung vào, tấm poncho thứ ba làm tấm drap trải nền. 
       Người lính đi hành quân dài ngày, ngoài ba lô quân dụng, phải mang một cấp số rưỡi đạn dược, nhiều trái lựu đạn, hành trang thường nặng trên 20 ki lô, nên ít ai mang theo chăn mền.  Do đó tấm poncho thứ ba, khi đêm khuya lạnh lẻo giữa nơi núi non, hay vùng đồng không mông quạnh, đã trở thành chiếc mền cho ba người lính đắp chung.  Ba người lính cùng dựng "túp lều lý tưởng", cũng là tổ "Tam Tam" trong cơ chế quân đội, là đơn vị nhỏ nhất: tổ Tam Tam, Tiểu đội, Phân đội, Trung đội, Đại đội,...  Khi đi vào những vùng khan hiếm nước, hay không có nước như mật khu Hắc Dịch thuộc tỉnh Phước Tuy chẳng hạn, người lính đào một cái hố cạn, phủ poncho lên trên, tạo thành một cái giếng cạn để hứng những giọt sương đêm, hay gặp may, có một cơn mưa nào bất ngờ chợt đến để hứng nước.  Sau cùng, khi người lính hy sinh nơi chiến địa, tấm poncho đã trở thành chiếc áo quan "phủ kín thân xác của người chiến sĩ".
* * *
       Mùa hè đỏ lửa năm 1972, Tiểu đoàn 2/43 cùng Đại đơn vị Sư đoàn 18BB nhảy vào An Lộc thay thế Sư đoàn 5BB, trấn giữ Thị xã này của "Bình Long Anh Dũng".
       Ngày 12 tháng 6 năm 1972, khi lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phới tung bay trên đỉnh đồi Đồng Long, người hùng An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố với phái viên VTVN: "Thành phố An Lộc đã được hoàn toàn giải tỏa".  Sau hơn hai tháng giao tranh, lực lượng tấn công cộng sản xâm lăng Bắc Việt với quân số đông gấp 4 lần lực lượng của QLVNCH, nhưng quân trú phòng đã gây cho chúng thiệt hại ít nhất là 30 ngàn quân trong tổng số 4 sư đoàn quân CSBV.  Tổn thất về phía QLVNCH cũng khá nặng nề.  Nhưng điều quan trọng là họ đã giữ vững được Thị xã.  Mặc dù An lộc đã trở thành một địa ngục của trần gian!  Mưu đồ của CSBV mong chiếm được An Lộc để đặt làm Thủ đô của cái gọi là "Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam", con đẻ của Hà nội, và làm bàn đạp tiến đánh Thủ đô Sàigòn hoàn toàn bị bẻ gãy.  Cuối cùng bọn đầu lĩnh Bắc Bộ Phủ đành phải chọn Lộc Ninh, một quận nhỏ của tỉnh Bình Long, nằm cách biên giới Việt - Miên vài cây số để làm thủ đô!  Thật là khôi hài!
       An Lộc đứng vững là nhờ sức chịu đựng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, và lòng hy sinh vô bờ bến của người lính VNCH.  Họ là những chiến sĩ Nghĩa Quân, Địa Phương Quân tỉnh Bình Long của Đại tá Trần Văn Nhựt, Sư đoàn 5 của Tướng Lê Văn Hưng, vài đơn vị của Sư đoàn 9, Sư đoàn 18, Sư đoàn 21, Biệt Động Quân, và lực lượng Nhảy Dù.  Hai câu thơ của một cô giáo An Lộc, được viết lên trên một tấm gỗ của thùng đạn pháo binh, cắm trước Nghĩa trang Biệt Cách Dù, ngay giữa khu phố chợ Bình Long:

"An Lộc Địa, sử ghi chiến tích,
Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân"
       đã nói lên lòng biết ơn sâu xa của người dân địa phương đối với sự hy sinh cao cả của người lính VNCH.        An Lộc đã đứng vững, các ngọn đồi chung quanh như Đồi Đồng Long, Đồi Gió, Đồi 169,... đã được tái chiếm.  Quân CSBV bị thua nặng, bị kiệt quệ, nên thôi mở những cuộc tấn công thiêu thân.  Nhưng vòng vây bao quanh thị xã vẫn xiết chặt.  Không đủ khả năng hay không còn dám mở những cuộc tấn công bằng bộ chiến, chúng tấn công bằng trận địa pháo.  Những trận mưa pháo liên tục trút lên thị xã nhỏ bé, ngày cũng như đêm.  Những người lính VNCH tử trận không có phương tiện để mang về Hậu cứ trong hoàn cảnh súng phòng không dày đặc, đường bộ thì bị cắt tại Tàu Ô trên QL13, đành phải "vùi nông một nấm" tại chỗ.  Nhưng mỗi tấc đất của An Lộc là một tấc lãnh đạn pháo của địch.  Do đó chuyện "người chết hai lần, thịt xương nát tan" như lời một bài ca của Trịnh Công Sơn là chuyện thường tình.  Tại An Lộc, Tiểu đoàn 2/43 đã có những người lính chết ba lần, bốn lần, thậm chí năm lần!  Thử hỏi thịt xương còn gì?  Không chỉ là nát tan!
       Sư đoàn 18BB của Đại tá Lê Minh Đảo, sau khi nhảy vào An Lộc, để cùng với Trung đoàn 52 và một Tiểu đoàn của Trung đoàn 48 tăng phái cho Sư đoàn 5, đã có mặt tại đây ngay từ những ngày đầu của trận chiến, liền cấp tốc mở những cuộc hành quân tái chiếm những vùng đất bị mất, nới rộng vòng đai phòng thủ, hầu giảm thiểu những trận mưa pháo của địch.  Phi trường Quản Lợi nằm cách xa thị xã An lộc lối 10 cây số về hướng Đông-Bắc.  Trong thời kỳ quân đội đồng minh còn tham chiến ở VN, nơi đây là căn cứ của một Lữ đoàn Quân đội Hoa Kỳ.  Người bạn đồng minh đã xây dựng tại đây những pháo đài, những bunkers rất là kiên cố để bảo vệ sân bay.  Khi trận chiến An Lộc xảy ra, đây là địa điểm tốt để đặt sở chỉ huy của chúng, nhất là những dàn đại pháo để bắn vào An Lộc.  Do đó, Tư lệnh Mặt trận Lê Minh Đảo quyết định bằng mọi giá, phải tái chiếm Phi trường Quản Lợi.
       Vào một ngày đầu thu năm 1972, Sư đoàn 18BB đã mở cuộc hành quân cấp Trung đoàn để tái chiếm Phi trường Quản Lợi.  Đây là vùng đồn điền cao su Đất Đỏ (Terre Rouge) của người Pháp.  Từ An Lộc đi về hướng Đông theo con đường 303.  Trước khi đến Phi trường, phải vượt qua một thung lũng hẹp.  Đây là thung lũng mà những người lính của Tiểu đoàn 2/43 gọi là "Thung lũng Tử thần".  Chính cái thung lũng nhỏ hẹp này đã cướp mất biết bao nhiêu là sinh mạng của các chiến sĩ Tiểu đoàn 2/43.
       Từ sáng sớm, những phi cơ chiến đấu thay nhau trút bom đạn lên đầu giặc; tiếp theo là những tràn đạn pháo 105ly, 155ly.  Những khẩu pháo này đã hoạt động liên tục trong suốt trận chiến, nòng súng bị nở rộng, đường khương tuyến bị mòn, nên bây giờ tác xạ không còn chính xác.  Độ sai số có thể lên đến 500 mét!  Sau những đợt mưa bom và đạn pháo, Tiểu đoàn 2/43 của Đại úy Nguyễn hữu Chế, khóa 13 Võ khoa Thủ Đức, và Tiểu đoàn 3/43 của Thiếu tá Lê Thanh Quang, khóa 16 Võ bị Đàlạt bắt đầu mở cuộc tấn công.  Trước khi mặt trời lặn, hai tiểu đoàn đã tiến chiếm được một đầu phi đạo.  Trận chiến diễn ra rất ác liệt, sự thiệt hại của cả hai bên đều khá cao!  Nhưng quân bạn đã lập được đầu cầu, xua quân địch về bên kia và về cuối phi đạo!  Cuộc hành quân chỉ tiến đến được ngang đó.  Bên kia phi đạo là một dãy pháo đài và bunkers kiên cố của quân đội Mỹ để lại.  Sức chống trả của địch thật mãnh liệt, quân bạn không thể tiến xa hơn.  Sau nhiều ngày tạm nghỉ ngơi, một trận đánh quyết liệt đã diễn ra mà nỗ lực chính là Tiểu đoàn 2/43 để giải quyết trận địa.
       Tiểu đoàn được tăng phái Đại đội Trinh sát 43 của Đại úy Nguyễn Tấn Chi, khóa 12 Võ khoa Thủ Đức.  Từ sáng sớm, bom và đạn pháo thay nhau trút xuống mục tiêu.  Thời gian của cơn mưa bom đạn kéo dài gần suốt ngày.  Trước khi tấn công, một màng khói nhân tạo, do những trái đạn khói pháo binh tạo thành, dày đặc, làm màng che cho bộ binh tiến lên.  Trận đánh kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ để vượt qua một phi đạo không rộng lắm.  Nhưng quân bạn không thể nào chiếm được những pháo đài và bunkers.  Cộng quân với các khẩu súng cộng đồng 12ly7, đại liên, trung liên, SKZ, B40, B41 đã chống trả quyết liệt.  Một vài toán quân tiến được qua bên kia phi đạo, nhưng không thể nào xâm nhập vào bên trong, đành phải bỏ cuộc, rút lui.  Con số thương vong khá cao.  Trời vừa tối, trước mặt vị Tiểu đoàn trưởng là 19 chiến sĩ QLVNCH nằm ngay hàng với tấm poncho phủ kín:

"Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại?
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về chiều hoang trốn nắng,
Poncho buồn liệm kín hồn anh.
Anh trở về bờ tóc em xanh,
Chít khăn sô lên đầu vội vã...Em ơi!"
                           (Kỷ Vật Cho Em - Phạm Duy)         Còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn này.  Chỉ trong một cuộc tấn công ngắn ngủi, con số thiệt hại đã lên quá cao! Nhiệm vụ chưa hoàn thành.  Mục tiêu vẫn chưa bị thanh toán.  Bóng đêm đến nhanh.  Ta và địch đều phải bận rộn lo việc tản thương và tiếp tế.  Địch bên kia phi đạo.  Ta ở bên này, mặt đối mặt, tất cả đều mệt mỏi rã rời!  Không ai buồn bắn pháo vào nhau.  Một đêm yên tĩnh trôi qua.  Trời thu ảm đạm, mây đen vần vũ.  Cơn mưa chợt đến.  Gió núi từng cơn thổi qua.  Người lính VNCH áo quần ướt nhẹp, co ro trong cái lạnh đầu mùa.  Nhưng súng không rời tay, mắt đăm đăm nhìn về hướng địch đang cố bám bên kia phi đạo, để theo dõi động tĩnh của đối phương.  Ngày hôm sau, trận đánh lại tiếp tục.  Nhưng lần này Tiểu đoàn được tăng cường Trung đội Hỏa tiễn TOW của Chuẩn úy Phương, vị sĩ quan tốt nghiệp Trường Fort Benning bên Mỹ.  Khi đưa Trung đội Hỏa tiễn TOW vào, Tư lệnh cho biết mỗi trái đạn trị giá 7 triệu đồng (vàng lúc đó là 20 ngàn/lượng).  Hỏa tiễn TOW là loại vũ khí chống xe tăng ra đời vào khoảng năm 1945.  Nhưng hình như chưa được tung ra mặt trận thì cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ hai chấm dứt.  Không biết trong trận chiến tranh Cao Ly, quân đội đồng minh đã có dịp xử dụng loại hỏa tiễn này chưa.  Trong chiến tranh Việt Nam, loại hỏa tiễn này chỉ mới trang bị cho QLVNCH từ hồi mùa hè đỏ lửa năm 1972, và chỉ mới xuống đến cấp Trung đoàn Bộ binh.  Mỗi Trung đoàn có một Trung đội gồm hai khẩu, gắn trên xe jeep.  Tầm bắn của viên đạn là 3000 mét.  Khi viên đạn rời nòng súng, nó kéo theo một sợi dây kim tuyến.  Chính nhờ sợi dây kim tuyến này mà ta có thể điều khiển viên đạn đến mục tiêu theo ý muốn.  Trên ống nhắm có một chữ thập.  Ta chỉ cần đưa chữ thập vào mục tiêu thì nhất định viên đạn phải trúng mục tiêu.  Khi nổ, sức nóng tõa ra trên 3000 độ.  Đặc biệt viên đạn có thể luồn lách qua những hàng cây như cây cao su.  Đây là loại vũ khí chống xe tăng rất hữu hiệu.  Chỉ tiếc rằng người bạn đồng minh đã viện trợ cho ta quá trễ. "Mất bò rồi mới làm chuồng!"  Cũng giống như hồi Tết Mậu Thân năm 1968, khi quân CSBV xâm lăng xử dụng AK47 để tấn công trên toàn cõi VNCH thì người bạn đồng minh mới cung cấp cho ta súng M16.  Sau này khi bộ đội CSBV xử dụng xe tăng T-54, ta mới được ông bạn quý nhượng lại cho M48, do họ rời chiến trường VN, nặng quá không tiện mang theo!  Có lẽ ông bạn Mỹ không muốn ta thắng VC, chỉ muốn ta thủ huề!  Họ sợ ta thừa thắng rồi mở cuộc Bắc tiến! làm mất thế cân bằng toàn cầu của họ.  Ôi!  Thương thay cho thân phận người lính của một nước nhược tiểu.
       Vị Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/43 hân hạnh được bắn phát đạn đầu tiên.  Viên đạn chạm trúng mục tiêu, vị trí của khẩu thượng liên 12ly7.  Viên đạn nổ, khẩu súng câm họng ngay.  Hàng mấy chục tên bộ đội bỏ chạy tán loạn.  Chúng tìm cách nhào xuống triền đồi, lủi nhanh vào rừng sâu.  Thêm hai viên đạn nữa rời nòng súng.  Những ổ kháng cự mạnh nhất của cộng quân bị vở.  Tiểu đoàn trưởng cho lệnh tấn công.  Chỉ trong một khoảnh khắc, toàn bộ trận địa của địch đã bị quân bạn chiếm lĩnh.  Xác địch nằm la liệt . Nhiều tên bị xiềng vào chân súng, vào bunkers.  Nhiều tiếng rên, nhiều tiếng khóc la.  Nào là "Bác ơi!  Đảng ơi!  Con chết mất.  Tuyệt nhiên không có tiếng "Bố ơi!  Mẹ ơi!" hay "Trời ơi!  Phật ơi!" như ta vẫn thường thốt lên mỗi khi đau đớn hay gặp cơn nguy biến.  Khói súng, và mùi da thịt cháy khét lẹt của giặc toả ra cả một vùng.  Súng cá nhân, súng cộng đồng vất bỏ ngổn ngang.  Kết quả ta thu được 1 súng thượng liên 12ly7, 1 súng cối 82ly, 2 khẩu 61ly, nhiều AK, B40 và B41.  Bên ta hoàn toàn vô sự!  Phi trường Quản Lợi đã được tái chiếm.
       Nhưng chiến thắng này Tiểu đoàn đã phải trả cái giá quá đắt!  Đó là mười chín sinh mạng của các Chiến sĩ Tiểu đoàn 2/43.  Những người lính dũng cảm, ra đi không hẹn ngày về.  Họ đã nằm lại trên mảnh đất quê hương, đã hy sinh thân xác để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được ĐỘC LẬP, TỰ DO, và mang lại HẠNH PHÚC, ẤM NO cho toàn dân.  Họ đã hy sinh thân xác để chống lại làn sóng đỏ tràn vào từ phương Bắc.  Nhưng cuối cùng, vì sự ngu dốt của bọn người "ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản", bọn người ngây thơ và nhẹ dạ, và vì sự phản bội của đồng minh; sự hy sinh của những người lính VNCH xem ra có vẻ oan uổng!  Họ đã bỏ phí đời trai trẻ. K hi nằm xuống, những tấm ponchos đã phủ kín đời họ.  Là những chiếc áo quan buồn, ra đi giữa vùng lửa đạn.  Nhưng cũng là cái may!  Họ đã chết vinh quang!  Họ không phải sống nhục sau ngày 30/4/1975, để phải chứng kiến cảnh "nước mất nhà tan".  Chỉ có những người còn lại là phải sống nhục, sống trong nỗi đau triền miên!

No comments:

Post a Comment